Sự nở rộ của các mối quan hệ đối tác chiến lược liệu có đang cải thiện an ninh khu vực hay không vẫn còn là một câu hỏi.
Có hai loại quan hệ đối tác chiến lược trong khu vực. Đó là các quan hệ đối tác chiến lược vì lợi ích chung của hai nước, dựa trên sự chia sẻ về các giá trị và lợi ích. Và các quan hệ đối tác chiến lược vì quản trị chung.
Quan hệ đối tác chiến lược đang trở thành trung tâm trong việc quản trị an ninh quốc tế ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Tất cả các cường quốc và rất nhiều các nước nhỏ hơn đã tham gia vào các quan hệ đối tác phức tạp với cả bạn bè và các đối thủ chiến lược tiềm tàng. Ví dụ, Trung Quốc đã miệt mài xây dựng gần 50 quan hệ đối tác chiến lược ở khu vực và xa hơn, với cả các nước có sự khác biệt như Afghanistan, Úc và Ấn Độ. Ngược lại, Ấn Độ có khoảng 20 quan hệ đối tác và Nhật Bản là 10.
Quan hệ đối tác chiến lược là một hình thức thực hành an ninh mới trong khu vực. Khi khái niệm này mới nổi lên, một số nhà phân tích đã lập luận rằng quan hệ đối tác xảy ra khi hai nhà nước có chung tầm nhìn về việc an ninh khu vực nên được quản trị như thế nào. Nhưng khi các quan hệ đối tác chiến lược mới được hình thành giữa các nhà nước với tầm nhìn và lợi ích mâu thuẫn nhau, giải thích về sự nổi lên của quan hệ đối tác chiến lược đó đã trở nên kém thuyết phục.
Ngày nay, có hai loại quan hệ đối tác chiến lược trong khu vực. Đó là các quan hệ đối tác chiến lược vì lợi ích chung của hai nước, dựa trên sự chia sẻ về các giá trị và lợi ích. Và các quan hệ đối tác chiến lược vì quản trị chung, định hướng bởi mong muốn thử nghiệm các sắp xếp để quản trị các xung đột về giá trị hoặc lợi ích, hoặc trong thực tế là cả hai.
Những mối quan hệ đối tác này được thiết lập bằng các hiệp định song phương. Chúng có thể bao gồm các cuộc đối thoại và điều phối chính sách liên chính phủ, hoặc các tiến trình kênh 1,5 hoặc kênh 2 được thể chế hoá – các thảo luận phi chính phủ nhằm mục đích xây dựng các mối quan hệ song phương. Chúng có thể bao gồm các cuộc gặp thượng đỉnh hoặc cấp bộ trưởng định kỳ cũng như các cam kết cụ thể để xây dựng các quan hệ kinh tế, quyết định đầu tư hoặc chuyển giao công nghệ. Các cam kết nhằm thúc đấy mối liên hệ nhân dân thông qua ngoại giao văn hoá tạo ra đặc trưng quan trọng khác của quan hệ đối tác chiến lược.
Mối quan hệ đối tác chiến lược phát triển nhất trong khu vực là mối quan hệ giữa Nhật Bản và Úc. Nó được xây dựng dựa trên mối quan hệ kinh tế lâu dài hậu Thế chiến II cũng như các nỗ lực quan trọng, bắt nguồn từ những năm 1970, để làm sâu sắc hơn mối quan hệ chính trị. Hai nước chia sẻ một tập hợp các giá trị chung (như dân chủ, nhân quyền và nền pháp quyền) và một tập hợp các lợi ích.
Qua thời gian, Úc và Nhật Bản đã phát triển các cơ chế điều phối chính sách về các vấn đề an ninh khu vực và quốc tế, bao gồm chống khủng bố, cấm phổ biến vũ khí hạt nhân, chia sẻ thông tin tình báo và các hoạt động nhân đạo. Hai nước cũng duy trì hợp tác quân sự rộng rãi và các mối quan hệ giữa hai quân đội. Quá trình này đã đạt đến đỉnh cao vào năm 2014 với tuyên bố trong chuyến thăm của Thủ tướng Úc Tony Abbott tới Tokyo về việc nâng cấp mối quan hệ lên thành “quan hệ đối tác chiến lược đặc biệt cho thế kỷ 21”.
Ngược lại, quan hệ đối tác chiến lược giữa Trung Quốc và Ấn Độ lại phát triển theo hướng quản lý sự thù địch hơn là tạo điều kiện thuận lợi để điều phối nhằm theo đuổi các giá trị và lợi ích chung. Mối quan hệ đối tác này hầu như mới chỉ tập trung vào việc thiết lập các đối thoại cấp cao, các nỗ lực để thúc đẩy thương mại và đầu tư từ mức thấp lịch sử và việc khởi động ngoại giao văn hoá. Những cơ chế này cho phép duy trì liên hệ thường xuyên, nhưng cái giá phải trả là phải “đóng băng” các vấn đề gây tranh cãi, ví dụ như, trong trường hợp này là biên giới Trung – Ấn.
Các quan hệ đối tác chiến lược rất linh hoạt và có thể được xây dựng theo các cách thức khác nhau, tuỳ thuộc vào tình trạng cơ bản của mối quan hệ song phương. Chúng ít chính thức hơn nhiều so với các thể chế trong khu vực và, ít nhất là trên nguyên tắc, dễ quản lý hơn so với các dàn xếp ngoại giao đa phương. Chúng không phá vỡ sự cân bằng trong khu vực theo cách mà các liên minh chính thức có thể gây ra. Nhưng sự nở rộ của các mối quan hệ đối tác chiến lược liệu có đang cải thiện an ninh khu vực hay không vẫn còn là một câu hỏi.
Bởi vì chúng linh hoạt, khả năng để đem lại các cam kết và xây dựng lòng tin có vẻ thấp hơn so với thể chế hoặc liên minh. Quan hệ đối tác chiến lược Nhật – Úc dường như không làm nhẹ đi cú sốc đối với quan hệ song phương được gây ra bởi quyết định không giành hợp đồng tàu ngầm của Úc cho Nhật Bản. Ai đó có thể lập luận rằng danh xưng quá to tát về đối tác “đặc biệt” có thể đã khiến Tokyo mang kì vọng quá mức đối với Canberra hơn so với thực tế.
Các mối quan hệ đối tác chiến lược khác có các hạn chế khác nhau. Ví dụ như quan hệ đối tác Úc – Trung Quốc là mối quan hệ đối tác ở mức tối thiểu, tập trung vào thương mại và đòi hỏi việc “khoanh vùng” các lĩnh vực xung đột tiềm tàng – các lĩnh vực nơi mà, nếu nói theo kiểu uyển ngữ ngoại giao mềm dẻo nhất trong tuyên bố chung năm 2009, thì “điều kiện quốc gia khác nhau” của hai nước có thể “dẫn đến sự khác biệt về mặt này hoặc mặt khác”.
Quan hệ đối tác chiến lược rất linh hoạt, nhưng sự linh hoạt cũng có thể có giá của nó. Có lẽ cái giá lớn nhất nằm ở sự biến mất của động lực thúc đẩy hướng đến việc kiến tạo một cấu trúc an ninh tốt hơn tại khu vực châu Á Thái Bình Dương. Điều này bao gồm thoả thuận về một bộ quy tắc ứng xử chung và một tập hợp các dàn xếp thể chế để quản trị và làm giảm bớt các xung đột khi chúng nổi lên.
Theo nghĩa đó, sự nở rộ các mối quan hệ đối tác chiến lược song song với việc bùng nổ của các thoả thuận thương mại tự do song phương đã đưa đến những thách thức tương tự nhau. Một mặt, các quan hệ đối tác là phương tiện để các nước tránh được những bất đồng lớn vốn đã ngăn cản việc đạt được các giải pháp đa phương mạnh mẽ hơn. Nhưng đồng thời, bản thân các quan hệ đối tác cũng có thể trở thành các vật cản cho các kết quả tích cực đó.
H.D.P (David) Envall và Ian Hall (East Asia Forum)
Theo Tuần VietNamNet
Comments[ 0 ]
Post a Comment