Yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông: Phải chăng là Tiểu thuyết Lịch sử?
Sunday, June 16, 2013
Bằng trí tưởng tượng và chủ nghĩa xét lại về lịch sử, Trung Quốc đặt cược rất cao vào “quân bài lịch sử” để bảo vệ những yêu sách của mình tại Biển Đông.
Quần đảo Trường Sa (của Việt Nam - BTV) – trước đây không lâu vốn chỉ được biết đến là một ngư trường đánh cá lớn – nay lại trở thành một điểm nóng quốc tế khi mà giới lãnh đạo Trung Quốc kiên trì đưa ra những phát ngôn ngày càng khiêu khích rằng các đảo, đá, và mỏm đá là “lãnh thổ lịch sử của Trung Quốc từ thời cổ đại” theo của lời Thủ tướng Ôn Gia Bảo.
Thông thường, những tuyên bố chủ quyền chồng lấn đối với biên giới đất liền và trên biển phải được giải quyết trên cơ sở kết hợp tập quán pháp, xét xử trước Tòa án Công lý Quốc tế hoặc Tòa án Quốc tế về Luật Biển, hoặc bằng hình thức trọng tài theo Phụ lục VII của Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển.
Mặc dù Trung Quốc đã phê chuẩn Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển (UNCLOS), nhưng công ước này nhìn chung phản đối các yêu sách “dựa trên lịch sử”, vốn là lập trường luôn được Bắc Kinh nhắc đi nhắc lại. Vào ngày 4 tháng 9 năm 2012, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc, Dương Khiết Trì, nói với Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton rằng có “rất nhiều bằng chứng lịch sử và pháp lý chứng minh Trung Quốc có chủ quyền đối với các đảo trên Biển Đông và các vùng nước liền kề”.
Liên quan đến “chứng cứ pháp lý”, rất nhiều chuyên gia luật quốc tế kết luận rằng yêu sách "danh nghĩa lịch sử" của Trung Quốc đối với Biển Đông, hàm ý bao gồm đầy đủ chủ quyền và quyền chủ quyền cho phép các nước khác được quá cảnh, là không có cơ sở. Bằng chứng lịch sử, nếu có, thì càng ít sức thuyết phục hơn.
Có rất nhiều mâu thuẫn trong cách Trung Quốc sử dụng chứng cứ lịch sử để biện hộ cho những yêu sách đối với các đảo và bãi đá ngầm trên Biển Đông, một trong số đó là cách so sánh gây tranh cãi giữa việc Trung Quốc làm với quá trình bành trướng đế quốc của Mỹ và các cường quốc châu Âu vào thế kỷ 18 và 19. Để biện hộ cho những nỗ lực mở rộng biên giới trên biển của Trung Quốc thông qua yêu sách đối với các đảo và bãi đá ngầm rất xa so với bờ biển, Giáo sư Jia Qingguo thuộc Khoa Nghiên cứu Quốc tế, Đại Học Bắc Kinh cho rằng Trung Quốc chỉ đơn thuần làm theo những gì phương Tây đã làm mà thôi.
Trả lời phỏng vấn AFP gần đây, ông Jia nói rằng: “Mỹ có đảo Guam ở châu Á, nằm cách rất xa nước Mỹ và Pháp cũng có các đảo ở phía Nam Thái Bình Dương, vì thế việc này không có gì là mới”.
Yêu sách dựa trên lịch sử của Trung Quốc đối với quần đảo Trường Sa đang gặp trở ngại bởi vì trên thực tế các đế chế thống trị ở khu vực trong quá khứ không hề thực thi chủ quyền (sovereignty). Đối với châu Á thời cận đại, đặc thù của các đế chế là có đường biên giới không xác định, không được bảo vệ và thường xuyên thay đổi. Khái niệm quyền bá chủ là phổ biến hơn.
Không giống như một quốc gia-dân tộc, đường biên giới của các đế chế Trung Hoa không được vẽ rõ ràng cũng như không được kiểm soát chặt chẽ mà thường là những đường tròn và những vùng hẹp dần tính từ trung tâm nền văn minh tới vùng ngoại vi không xác định của các tộc người khác.
Quan trọng hơn, trong những tranh chấp lãnh thổ với các nước láng giềng Ấn Độ, Myanmar và Việt Nam, Bắc Kinh luôn giữ quan điểm rằng đường biên giới trên bộ của mình chưa bao giờ được xác định, phân giới và cắm mốc. Nhưng hiện nay, khi vấn đề xảy ra đối với các đảo, bãi cạn và mỏm đá trên Biển Đông thì Bắc Kinh lại tuyên bố theo cách khác.
Nói cách khác, khẳng định của Trung Quốc rằng đường biên giới trên bộ của nước này chưa bao giờ được xác định và phân giới hoàn toàn trái ngược với quan điểm rằng biên giới trên biển của Trung Quốc luôn luôn được xác định và phân định ranh giới một cách rõ ràng. Ở đây đã thấy tồn tại một mâu thuẫn cơ bản trong lập trường của Trung Quốc về đường biên giới trên bộ và trên biển và quan điểm không thể bảo vệ được.
Nói đúng hơn, chính những nỗ lực của Trung Quốc vào giữa thế kỷ 20 muốn biến những đường biên giới không xác định của các nền văn minh và đế chế cổ đại được hưởng quyền bá chủ thành những biên giới được phân định rõ ràng của các quốc gia-dân tộc hiện đại để hưởng chủ quyền là nguyên nhân chính dẫn đến tranh chấp lãnh thổ/ biển giữa Trung Quốc và các nước láng giềng. Tóm lại, chủ quyền là một khái niệm chỉ được gắn cho các quốc gia-dân tộc, không phải các đế chế cổ đại.
Biên giới hiện tại của Trung Quốc chủ yếu phản ánh đường biên giới được thiết lập trong thời kỳ bành trướng lãnh thổ hoàng kim của Triều đại nhà Thanh (Mãn Châu) vào thế kỷ 18, dần dần theo thời gian được củng cố thành biên giới quốc gia cố định theo khuôn khổ của hệ thống quốc gia-dân tộc Westphalia áp dụng đối với châu Á trong thế kỷ 19 và 20.
Tuy nhiên, lịch sử chính thống Trung Quốc ngày nay thường bóp méo giai đoạn lịch sử phức tạp này bằng tuyên bố rằng người Mông Cổ, Tây Tạng, Mãn Châu và Hán đều là người Trung Quốc, trong khi trên thực tế Vạn Lý Trường Thành được các triều đại Trung Quốc xây dựng nhằm bảo vệ đất nước Trung Hoa của người Hán trước sự xâm lăng của các tộc người Mông Cổ và Mãn Châu ở phía Bắc; bức tường thành trên thực tế thể hiện đường vành đai an ninh của các đế chế Trung Hoa của người Hán.
Trong khi hầu hết các nhà sử học đều xem sự càn quét của các đạo quân xâm lược Mông Cổ do Thành Cát Tư Hãn lãnh đạo đầu những năm 1200 như một thảm kịch đe dọa sự sống còn của các nền văn minh cổ đại ở Ấn Độ, Ba Tư và các quốc gia khác (Trung Quốc cũng là một trong số đó) thì người Trung Quốc đã có toan tính khi loan truyền giả thuyết cho rằng Thành Cát Tư Hãn thực chất là “người Trung Quốc”, và vì thế tất cả những vùng đất mà người Mông Cổ (Triều Nguyên) đã từng chiếm đóng và chinh phục (như Tây Tạng và phần lớn Trung và Nội Á) đều thuộc về Trung Quốc.
Các yêu sách của Trung Quốc đối với Đài Loan và Biển Đông cũng đều dựa trên lập luận rằng cả hai khu vực này đều từng thuộc đế quốc Mãn Châu. (Thực tế, các bản đồ của Triều đại Mãn Châu và Triều Nguyên đều mô tả đảo Hải Nam là biên giới cực Nam của Trung Quốc, chứ không phải Quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.) Theo cách lý giải lịch sử này, bất cứ vùng lãnh thổ nào từng bị “người Trung Quốc” chinh phục trong quá khứ sẽ luôn là của Trung Quốc cho dù nó bị chinh phạt vào thời gian nào đi chăng nữa.
Việc viết và sửa lại lịch sử theo quan điểm dân tộc chủ nghĩa để thúc đẩy đoàn kết dân tộc và tính hợp pháp của chế độ được các các nhà lãnh đạo Trung Quốc, bao gồm cả những nhà cộng sản và dân tộc chủ nghĩa, coi là ưu tiên cao nhất. Dàn lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc tự cho mình là người kế thừa di sản của đế chế Trung Hoa, nên thường sử dụng những biểu trưng và lối ăn nói của một đế chế.
Từ những cuốn sách giáo khoa của học sinh tiểu học cho đến các bộ phim truyền hình dã sử, hệ thống thông tin do nhà nước kiểm soát đã nhồi nhét vào đầu các thế hệ người Trung Quốc về sự oai phong và hùng vĩ của đế chế Trung Hoa. Như một nhà Hán học người Úc Geremie Barmé đã chỉ ra, “Trong hàng thập kỷ giáo dục và tuyên truyền của Trung Quốc đã đề cao vai trò của lịch sử trong sự phát triển của nhà nước-dân tộc Trung Quốc… Trong khi chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Mao chỉ còn là cái tên thì vai trò của lịch sử trong tương lai của Trung Quốc là bất biến”. Cứ như vậy, đã có không biết bao nhiêu lịch sử đã được các cơ quan nghiên cứu, truyền thông và giáo dục thêu dệt để trở thành công cụ lãnh đạo chính trị của nhà nước (hay còn được gọi “cuộc xâm lược trên bản đồ”).
Trung Quốc sử dụng các câu chuyện dân gian, truyền thuyết, thần thoại cũng như lịch sử để cổ súy cho các yêu sách lãnh thổ và biển của mình. Các sách giáo khoa của Trung Quốc thuyết giảng về Vương quốc Trung tâm (Middle Kingdom) với tư cách là nền văn minh cổ nhất và tiến bộ nhất và là trung tâm của vũ trụ, bao quanh bởi các nước nhỏ bé hơn và phụ thuộc ở Đông và Đông Nam Á luôn phải cúi đầu và thần phục Trung Quốc.
Cách lý giải lịch sử của Trung Quốc thường cố tình làm lu mờ sự khác biệt giữa ảnh hưởng bá quyền, mối quan hệ chư hầu-thiên triều với sự kiểm soát trên thực tế. Đi theo quan điểm ai làm chủ quá khứ sẽ kiểm soát hiện tại vẽ ra cả tương lai, Bắc Kinh luôn đặt cược rất cao vào “quân bài lịch sử” (thường là cách lý giải theo kiểu xét lại về lịch sử) trong các nỗ lực ngoại giao nhằm đạt được mục tiêu chính sách đối ngoại, đặc biệt là bắt các nước khác nhân nhượng về lãnh thổ và ngoại giao.
Hầu hết các nước láng giềng đều đã một lần hoặc hơn phải chịu sự tấn công quân sự của Trung Quốc – Mông Cổ, Tây Tạng, Mi-an-ma, Triều Tiên, Nga, Ấn Độ, Việt Nam, Phi-lip-pin và Đài Loan – và do đó là đối tượng của lịch sử xét lại của Trung Quốc. Như Martin Jacques nhắc đến trong cuốn When China Rules the World (Khi Trung Quốc thống trị thế giới) Chủ nghĩa Trung Quốc thiên triều (Sinocentrism) góp phần hình thành và là nền móng cho chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc hiện đại”.
Nếu khái niệm về chủ quyền quốc gia xuất hiện châu Âu vào thế kỷ 17 và hệ thống đó bắt nguồn từ Hiệp ước Westphalia, thì chủ quyền trên biển là khái niệm do người Mỹ đặt ra vào giữa thế kỷ 20 và Trung Quốc đã cố tận dụng để mở rộng đường biên giới trên biển. Jacques chỉ ra, “Ý tưởng về chủ quyền trên biển là một phát minh tương đối mới, bắt đầu từ năm 1945 khi Mỹ tuyên bố ý định thực thi chủ quyền đối với vùng lãnh hải của mình”.
Trên thực tế, Công ước Luật Biển của Liên Hợp Quốc là nỗ lực đáng chú ý nhất của quốc tế trong việc áp dụng khái niệm chủ quyền của đất liền đối với các vùng biển trên toàn thế giới, tuy vậy điểm khá quan trọng là nó bác bỏ ý tưởng các lập luận chứng minh bằng quyền lịch sử. Vì vậy, dù Bắc Kinh yêu sách khoảng 80% Biển Đông như "vùng nước lịch sử" của nước này (và hiện đang hướng tới việc nâng yêu sách lên nhóm "lợi ích cốt lõi" giống như yêu sách đối với Đài Loan và Tây Tạng), nói về mặt lịch sử, Trung Quốc có quyền yêu sách Biển Đông như Mexico yêu sách Vịnh Mexico cho riêng mình, hay Iran đối với Vịnh Ba Tư, Ấn Độ đối với Ấn Độ Dương.
Các đế chế cổ đại giành quyền kiểm soát lãnh thổ thông qua hoạt động xâm chiếm, sáp nhập, đồng hóa hay để mất lãnh thổ vào tay các đối thủ khác, những đế chế có binh lực hoặc khả năng thống trị tốt hơn. Việc mở rộng và thu hẹp lãnh thổ là một khái niệm được quyết định bởi sự hưng thịnh hay suy yếu của một vương quốc hay đế chế. Vì vậy, quan niệm "vùng đất thiêng liêng" là phi lịch sử bởi việc kiểm soát lãnh thổ dựa trên việc một nước chiếm đoạt hoặc đánh cắp những gì thuộc về nước khác.
Biên giới của những triều đại Tần, Hán, Đường, Tống và Minh mở rộng và thu hẹp trong suốt quá trình lịch sử. Một đế quốc Trung Hoa thịnh vượng và hùng cường, cũng giống như nước Nga sa hoàng, bành trướng lãnh thổ ở vùng Nội Á và Đông Dương khi cơ hội xuất hiện và sức mạnh cho phép. Việc mở mang bờ cõi dần dần qua nhiều thế kỷ dưới triều đại Mông Cổ và Mãn Châu đã tăng thêm quyền kiểm soát của đế chế Trung Hoa đối với Tây Tạng và một số vùng ở Trung Á (nay là Tân Cương), Đài Loan và Đông Nam Á. Trên thực tế, Trung Quốc cận đại chính là một “nhà nước đế chế" dưới mác một quốc gia-dân tộc.
Nếu các yêu sách của Trung Quốc được chứng minh trên cơ sở lịch sử, thì yêu sách lịch sử của Việt Nam và Philippines cũng có thể dựa vào yếu tố lịch sử của họ. Ví dụ, các sinh viên ngành lịch sử Châu Á biết rằng dân tộc Mã Lai, có gốc gác với người Philippines ngày nay, có thể đưa ra yêu sách đối với Đài Loan thuyết phục hơn của Bắc Kinh. Những người gốc Mã Lai Pô-li-nê-di đã định cư đầu tiên ở Đài Loan, họ là tổ tiên của nhóm thổ dân ngày nay – những người cư ngụ ở vùng đồng bằng thấp ven biển.
Trong bài viết năm ngoái trên tờ Bưu điện Hoa Nam Buổi sáng, nhà bình luận châu Á nổi tiếng, ông Philip Bowring đã nhận xét rằng, "Việc Trung Quốc có những ghi chép lịch sử lâu đời không làm vô hiệu giá trị lịch sử của các quốc gia khác thể hiện qua cổ vật, ngôn ngữ, nòi giống và quan hệ di truyền, các bằng chứng về giao thương và đi lại.” Trừ khi ai đó tán thành khái niệm quan điểm chủ nghĩa cá biệt dành riêng cho Trung Quốc, nếu không “yêu sách lịch sử" của đế quốc Trung Hoa có giá trị như yêu sách lịch sử của những vương triều và đế chế khác ở Đông Nam Á và Nam Á. Việc Trung Quốc yêu sách các khu vực thuộc địa của đế chế Mông Cổ và Mãn Châu giống với việc Ấn Độ yêu sách Afghanistan, Bangladesh, Miến Điện, Malaysia (Srivijaya), Nepal, Pakistan và Sri Lanka với lập luận đây là các phần thuộc triều đại Maurya, Chola, hoặc đế chế Mông Cổ và đế chế Ấn Độ thuộc Anh.
Các yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông cũng đánh dấu một sự thay đổi lớn về định hướng địa chính trị lâu đời của một cường quốc lục địa. Với việc tuyên bố có bề dày truyền thống đi biển, Trung Quốc đề cập nhiều đến cuộc thám hiểm đầu thế kỷ XV của Trịnh Hòa tới Ấn Độ Dương và Châu Phi. Nhưng, như Bowring chỉ ra rằng "Nếu nói đến hoạt động hàng hải ngoài các vùng nước ven bờ, Trung Quốc thực sự chỉ là người đến sau.
Trong nhiều thế kỷ, những người bá chủ của đại dương là người Mã Lai Pô-li-nê-di, những người đã chinh phục phần lớn thế giới, từ Đài Loan đến New Zealand, Hawaii ở phía nam và phía đông, và Madagascar ở phía tây. Các chum đồng đã được trao đổi ở Palawan, phía nam Scarborough vào thời Khổng Tử. Những người hành hương Phật giáo của Trung Quốc như Pháp Hiển đến Sri Lanka và Ấn Độ vào thế kỷ thứ năm đã đi bằng thuyền do người Mã Lai sở hữu và điều khiển. Tàu thuyền đi từ khu vực mà ngày nay là Philippines đã có hoạt động giao thương ở Phù Nam, một nhà nước cổ hiện nay thuộc miền Nam Việt Nam, một ngàn năm trước thời nhà Nguyên."
Và cuối cùng, cái gọi là "yêu sách lịch sử" của Trung Quốc đối với Biển Đông không thực sự “tồn tại từ nhiều thế kỷ trước." Những yêu sách này chỉ có từ năm 1947, khi chính phủ theo chủ nghĩa dân tộc của Tưởng Giới Thạch vẽ cái gọi là "đường mười một đoạn" trên bản đồ của Trung Quốc ở Biển Đông, bao gồm quần đảo Trường Sa và các chuỗi đảo khác mà chính phủ Quốc Dân Đảng cầm quyền tuyên bố thuộc chủ quyền của Trung Quốc.
Bản thân ông Tưởng nói rằng ông ta xem chủ nghĩa phát xít Đức như một hình mẫu cho Trung Quốc, bị cuốn hút bởi ý tưởng của Đảng quốc xã về Không gian Sinh tồn được mở rộng ("không gian sống") cho dân tộc Trung Hoa. Tưởng Giới Thạch không có cơ hội trở thành người theo chủ nghĩa bành trướng bởi người Nhật đã đẩy ông lui về thế phòng thủ, nhưng những người vẽ bản đồ của chế độ dân tộc chủ nghĩa khi đó đã vẽ ra đường chữ U gồm mười một đoạn với nỗ lực mở rộng "không gian sống" của Trung Quốc trên Biển Đông. Sau chiến thắng của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong cuộc nội chiến năm 1949, Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc đã chấp nhận tấm bản đồ này, sửa lại ý tưởng của Tưởng Giới Thạch thành "đường chín đoạn" sau khi xóa bớt hai đoạn nằm ở Vịnh Bắc Bộ vào năm 1953.
Kể từ khi Chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc, Trung Quốc đã vẽ lại bản đồ của nước này, xác định lại đường biên giới, tạo ra các bằng chứng lịch sử, sử dụng vũ lực để thiết lập thực trạng mới về lãnh thổ, đổi tên các đảo và cố gắng áp đặt lối giải thích lịch sử đối với các vùng biển trong khu vực. Trung Quốc đã thông qua một đạo luật vào năm 1992, "Luật lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải" trong đó yêu sách bốn phần năm Biển Đông.
Hải quân Trung Quốc đã có những cuộc đụng độ quân sự với hải quân của Philippines và Việt Nam trong những năm 1990. Mới đây, việc triển khai số lượng lớn tàu cá và tàu hải giám Trung Quốc đến vùng biển tranh chấp để tạo thành một thế trận gần như là "chiến tranh nhân dân trên biển" đã làm gia tăng căng thẳng. Trích lời của nhà bình luận Sujit Dutta, "Chủ trương phục hồi lãnh thổ không khoan nhượng của Trung Quốc [được] dựa trên ... học thuyết cho rằng cần chiếm giữ khu vực ngoại vi để bảo vệ khu vực trung tâm. [Đây] về cơ bản là một khái niệm rất đế quốc được tiếp thu bởi những người Trung Quốc theo chủ nghĩa dân tộc - cả Quốc Dân Đảng và Đảng Cộng Sản. Những nỗ lực của chế độ [hiện nay] nhằm giành được đường biên giới địa lý tưởng tượng với rất ít cơ sở lịch sử đã, đang và sẽ tiếp tục gây ra những hậu quả chiến lược bất ổn."
Một lý do mà Đông Nam Á cảm thấy khó chấp nhận yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc đó là nước này luôn hành xử quyết đoán theo kiểu dân tộc Hán ưu việt đối với các dân tộc và đế chế khác ở Châu Á. Như lời ông Jay Batongbacal thuộc Trường Đại học luật Philippines: "Bằng trực giác, chấp nhận đường chín đoạn chả khác nào việc phủ nhận chính bản sắc và lịch sử của tổ tiên người Việt Nam, người Philippines, và người Mã Lai, nó gần như một sự hồi sinh ở thời kỳ hiện đại của tư tưởng hạ thấp những tộc người không phải người Trung Quốc, xem họ như những “người man rợ” không có phẩm giá và được tôn trọng giống như một dân tộc."
Các đế chế và vương triều chưa bao giờ thực thi chủ quyền. Nếu yêu sách lịch sử có bất kỳ giá trị nào thì Mông Cổ có thể yêu sách toàn bộ Châu Á chỉ đơn giản bởi đế chế này đã từng chinh phục các vùng đất của châu lục. Hoàn toàn không có cơ sở lịch sử để bảo vệ yêu sách đường chín đoạn, đặc biệt khi xét đến việc lãnh thổ của đế chế Trung Hoa chưa từng được phân định một cách rõ ràng như các quốc gia-dân tộc, mà đúng hơn chỉ là các khu vực chịu ảnh hưởng giảm dần tính từ vùng trung tâm văn minh của đế chế.
Đây là lập trường của Trung Quốc hiện đại bắt đầu từ những năm 1960 trong các cuộc đàm phán về biên giới trên bộ với một số quốc gia láng giềng. Nhưng đây không phải quan điểm Trung Quốc áp dụng ngày nay trong các tranh cãi về bản đồ, ngoại giao và những va chạm quân sự cường độ thấp nhằm xác định ranh giới trên biển của nước này. Việc liên tục giải thích lại lịch sử nhằm thúc đẩy các yêu sách về biển, chính trị, lãnh thổ, kết hợp cùng khả năng điều chỉnh "làn sóng dân tộc chủ nghĩa" của giới lãnh đạo Cộng sản Trung Quốc trong những thời điểm căng thẳng với Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Việt Nam và Philippines, đã khiến cho Bắc Kinh khó khăn trong việc trấn an các nước láng giềng rằng "sự trỗi dậy hòa bình" của nước này hoàn toàn là hòa bình.
Vì có sáu bên yêu sách các rạn san hô, đảo, đá và mỏ dầu ở Biển Đông, tranh chấp Quần đảo Trường Sa, theo định nghĩa, là tranh chấp đa phương nên cần phân xử bằng trọng tài quốc tế. Nhưng Trung Quốc luôn nhấn mạnh các tranh chấp này là song phương nhằm mục đích đặt đối thủ cạnh tranh vào giữa “cái đe” chủ nghĩa xét lại lịch sử và “cái búa” sức mạnh quân sự ngày càng tăng của nước này.
Giáo sư Mohan Malik
Đây là bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả Mohan Malik, là Giáo sư về an ninh châu Á tại Trung tâm Nghiên cứu An ninh châu Á – Thái Bình Dương, ở Honolulu
Theo Infonet
Tags:
Biển Đông
Comments[ 0 ]
Post a Comment