Ngày 22/12/2010, trước khi được ra Trường Sa lần thứ hai, tôi tìm về thôn Phú Hữu. Cụ Võ Ta, cha của liệt sĩ Võ Đình Tuấn tự tay viết và trao cho tôi một lá thư gửi hương hồn người con trai mãi mãi tuổi hai mươi. Sáng 12/1/2011, tại vùng biển cạnh đảo Gạc Ma, trong lễ tưởng niệm những người con đất Việt hy sinh ngày 14/3/1988, trên một chiếc xuồng nhỏ, tôi đọc to rồi hóa vàng lá thư của cụ Võ Ta: “Cha mẹ Võ Ta – Phan Thị Đay tưởng nhớ con Tuấn đã hy sinh ở Trường Sa ngày 14/3/1988. Mong linh hồn con siêu thoát”. Gió cuốn tro thư bay lên cao trước khi hòa vào sóng nước Trường Sa. Ngửa mặt lên trời, tôi thấy như mây trắng quần tụ lại, thành những dáng người đang nhìn xuống, cảm giác như Võ Đình Tuấn và các đồng đội của anh đã nhận được thư của cha mẹ anh. Bài trên báo Tiền Phong, clip bản tin của VTV1 về lễ tưởng niệm được tôi đưa lên blog, với niềm tin: “Không ai bị lãng quên, không điều gì bị lãng quên!”.
Do trái tim mách bảo hay hương hồn anh Tuấn mách bảo, chị D., người yêu xưa của anh Tuấn đã thấy ảnh anh ở blog của tôi. Hai người chưa một lần nắm tay nhau, chưa từng có một nụ hôn, nhưng hình bóng Tuấn vẫn không phai mờ trong tâm trí D. “Nhiều khi, D. hy vọng Tuấn không hy sinh, đang ở một nơi nào đó. Một buổi sáng, Tuấn sẽ xuất hiện trước mặt D., vóc người tầm thước, nước da ngăm đen, mái tóc quăn, nụ cười chân chất...”. D. chat với tôi. Câu chuyện về tình cảm của chị D. dành cho anh Tuấn đã được kể trong bài báo “Muốn ra nơi sóng đã cuốn Tuấn đi”, đăng trên báo Tiền Phong và báo Khánh Hòa trong tháng 5/2011. Chưa được ra nơi sóng đã cuốn Tuấn đi, cuối năm 2011 chị D. đã nhờ tôi và đồng nghiệp gửi vào lòng biển Gạc Ma những kỷ vật tình yêu của anh chị.
Những sự hy sinh âm thầm, lớn lao
Phóng viên Nguyễn Đình Quân đọc thư của cụ Võ Ta gửi liệt sĩ Võ Đình Tuấn, tại lễ tưởng niệm ngày 12/1/2011.
Sáng 18/1/2011, khi đón anh em hoàn thành nhiệm vụ ở đảo Tiên Nữ ra tàu Trường Sa 22, chúng tôi đã trải qua những phút lo lắng đến thắt lòng. Mấy lần xuồng công tác kéo xuồng chuyển tải vượt mép xanh (vùng rìa bãi cạn san hô tiếp giáp biển) đều bị sóng hất dựng ngược, chết máy. Anh em trên đảo phải mặc áo phao, lội nước ra kéo hai xuồng trở vào. Cố gắng vượt mép xanh ở hướng khác, xuồng công tác bị sóng đánh chìm. Tàu Trường Sa 22 phải cấp tốc hạ xuồng cứu sinh, kéo hai xuồng về tàu. Khi lên tàu, Đại úy Nguyễn Duy Bá, Chính trị viên đảo Tiên Nữ nói với tôi: “Chúng tôi ở đảo vất vả chút, nhưng thấm gì so với vợ ở nhà. Mọi việc gia đình, hiếu hỉ, nuôi dạy con đều một tay vợ lo toan hết”. Có những người vợ vừa phải chịu đựng nỗi cô đơn hằng năm trời, vừa phải chịu những điều thị phi đối với người phụ nữ vắng chồng, sự hy sinh, thiệt thòi của họ khó có thể diễn tả hết bằng lời…
Chiều 28/12/2010, ở quân cảng Cam Ranh, tôi chứng kiến cảnh Trung úy Bùi Minh Nam chia tay vợ con, trước khi anh lên đường ra đảo Song Tử Tây. Cậu con trai Bùi Minh Đức mới 2 tuổi, chưa hiểu gì về sự chia ly, cứ vô tư chào kiểu con nhà binh với mọi người. Trong khi đó, vợ Trung úy Nam là chị Trần Thị Loan thỉnh thoảng lại lấy khăn tay lau nước mắt, đôi mắt đỏ hoe. Chiều ngày 2/1/2013, tôi lại gặp đôi mắt đỏ hoe ấy. Sau ít ngày về đất liền, trung úy Bùi Minh Nam lại ra Trường Sa, lần này anh làm nhiệm vụ tại đảo Nam Yết. Vợ chồng họ lại phải xa nhau, đằng đẵng... Khi đoàn tàu rời bến đưa những người lính ra đảo xa, nhiều phụ nữ, nhiều cô gái thẫn thờ dõi mắt trông theo, những cặp uyên ương vừa vẫy tay chào vừa nói với nhau qua điện thoại, miệng cười mà mắt ướt. Những gương mặt buồn, những đôi mắt ngấn nước ấy nhắc tôi rằng, để giữ gìn bờ cõi Tổ quốc, đã có biết bao sự hy sinh âm thầm, lớn lao.
Comments[ 0 ]
Post a Comment