Trước khi xảy ra sự cố Trung Quốc ngang ngược kéo giàn khoan 981 vi phạm chủ quyền Việt Nam, các cường quốc như Mỹ, Nhật Bản cũng đã nhận ra được ý đồ của nước này. Liên minh Mỹ, Nhật đang đau đầu với câu hỏi: Làm thế nào để kiềm chế sức mạnh quân sự, trong đó có sức mạnh hải quân của Trung Quốc?
Mũi tàu K-10 sau khi va chạm với tàu ngầm Trung Quốc ở Biển Đông
Hạm đội tàu ngầm nguyên tử Trung Quốc lẽ ra có thể tạo ra mối đe dọa thực sự đối với Mỹ thì vẫn là mắt xích yếu của hải quân Trung Quốc. Các tàu ngầm nguyên tử mang tên lửa đường đạn và tàu ngầm nguyên tử tiến công thế hệ 1 của Trung Quốc hầu như không ra khơi. Thế hệ 2 hiện cũng thế. Ba tàu ngầm nguyên tử mang tên lửa đường đạn mới nhất lớp Type 094 Tấn hiếm khi rời khỏi bến cảng căn cứ Tam Á chỉ trong thời gian ngắn.
Các tàu ngầm này có độ ồn khá lớn, hoạt động của các lò phản ứng gây ra bị chê trách nhiều, không có hệ thống liên lạc mật với sở chỉ huy trên bờ nên cản trở việc đưa các tàu ngầm đi tuần tra đường dài. Nhưng chủ yếu nhất là tên lửa đường đạn xuyên lục địa Julang-2 (JL-2) có tầm bắn đến 7.400 km đến nay vẫn chưa được hoàn thiện hẳn. Nói cách khác, Trung Quốc vẫn còn lâu mới chế tạo được một hệ thống tàu ngầm chiến lược thực sự hiệu quả.
Nguyên nhân lạc hậu thì nhiều. Và có lẽ đóng vai trò không kém phần quan trọng ở đây là sự cố bi thảm xảy ra ở Biển Đông ngày 22/1/1983. Hôm đó, tàu ngầm nguyên tử tên lửa K-10 lớp Projekt 675 (NATO gọi là Echo II) dưới sự chỉ huy của Đại tá Valery Medvedev trực chiến tại vùng biển này đã đến điểm thực hiện phiên liên lạc với sở chỉ huy trên bờ. Nhưng tàu ngầm đã đến nơi hơi sớm một chút.
Trên mặt biển bão tố đang hoành hành. Dưới sống tàu là 4.500 m nước. Nhưng ở độ sâu 54 m mà tàu ngầm đang chạy, bão biển không cảm thấy rõ lắm. Hạm trưởng quyết định tiến hành trinh sát thủy âm khu vực để phát hiện xem tàu K-10 có bị đối phương tiềm tàng theo dõi hay không. Ông hạ lệnh bắt đầu chạy vòng sang trái để nghe vùng nước ở các góc hướng đuôi vốn là các vùng chết đối với trạm thủy âm của chiếc tàu ngầm hạt nhân.
Ở đây, cần nói đôi lời về tàu ngầm nguyên tử Projekt 675. Chúng được mệnh danh là “sát thủ tàu sân bay” vì chúng dùng để tấn công các tàu nổi cỡ lớn của Mỹ, cũng như các căn cứ hải quân. Các tàu ngầm này được trang bị 8 tên lửa hành trình P-6, trong đó có các tên lửa mang cả đầu đạn hạt nhân, hoặc P-5D để tấn công mục tiêu bờ. Tuy nhiên, các tàu ngầm này có những nhược điểm lớn.
Chúng chỉ có thể phóng tên lửa ở trạng thái nổi, điều đó làm giảm tính bí mật của chúng, tức là giảm khả năng sống sót trong chiến đấu. Nhược điểm thứ hai là độ ồn cao. Đó không chỉ là do hoạt động của các cơ cấu mà cả do có các lỗ khoét-chặn khí phụt của các bệ phóng tên lửa trong vỏ nhẹ. Ngay khi tàu ngầm tăng tốc, các lỗ khoét này mà trong đó xuất hiện xoáy nước bắt đầu “gào rú”. Chính vì thế lính tàu ngầm Mỹ gọi các tàu ngầm Liên Xô là “những con bò rống”.
Vào năm 1970, những nhược điểm này suýt nữa làm đắm tàu ngầm nguyên tử K-108 do Đại tá Suren Bagdasaryan chỉ huy. Tàu ngầm sau khi hoàn thành các bài huấn luyện kiểm tra tại vịnh Avachinsk đang chờ tín hiệu quay về căn cứ. Thủy thủ đoàn đã đi nghỉ ngơi, trừ những người gác. Và đúng lúc tàu ngầm thực hiện một lần vòng sang trái để nghe “các vùng chết” bằng thiết bị thủy âm thì K-108 bị va chạm mạnh vào phần dưới mũi ở mạn phải.
Chiếc tàu ngầm Liên Xô bị tàu ngầm nguyên tử Mỹ Tautog bám theo sau tông phải với đúng nghĩa của từ này. Tàu K-108 bắt đầu rơi xuống sâu, mà dưới sống tàu là là hơn 2.000 m nước. Nhưng các hành động quyết liệt của hạm trưởng và thủy thủ đoàn đã cho phép chiếc tàu ngầm nguyên tử cải bằng và bơm khí vào các thùng nổi khẩn cấp.
Thực ra, Đại tá Bagdasaryan cho rằng, chủ yếu là nhờ sự tình cờ. Tàu ngầm Mỹ Tautog đâm tàu ngầm Liên Xô bằng phần che chắn các thiết bị thò thụt trên tháp tàu vào khu vực trục phải và nó đã làm giảm chấn, không để phá thủng vỏ chính của tàu K-108.
Giống như các hạm trưởng tàu ngầm nguyên tử Projekt 675 khác, Valery Medvedev biết rõ sự cố với tàu K-108, nên ông cố gắng cẩn thận.
Các chuyên gia thủy âm báo cáo rằng, xung quanh không có gì. Thì ngay lúc đó, những người trên tàu cảm thấy có sự va chạm. Cú va chạm không mạnh, nhưng có thể cảm nhận được. K-10 bị mắc vào một vật thể nào đó và đã chạy cùng với nó một thời gian ngắn. Cá voi ư? Hay con bạch tuộc khổng lồ? Không phải, là một cái gì đó khác, nhưng là cái gì?
Các báo cáo truyền đến từ các khoang nói rằng, các khoang đã được kiểm tra và không có vấn đề gì. Hồi 21 giờ 31, tàu nổi lên mặt nước. Bên trên, bão vẫn lồng lộn. Bóng tối dày đặc. Trên mặt biển, các thủy thủ K-10 chẳng nhìn thấy gì. Họ báo cáo về sự cố về sở chỉ huy. Sở chỉ huy hạ lệnh chạy về căn cứ Cam Ranh, Việt Nam. Khi kiểm tra tàu ngầm, ở phần mũi tàu, người ta phát hiện hư hại nặng và những miếng kim loại lạ.
Do chẳng có nước nào nhận có tàu ngầm bị hư hại hay bị chìm nên Bộ tư lệnh Hải quân Liên Xô cũng không đưa ra thông báo gì. Nhưng hai năm sau, trên báo chí Trung Quốc đã xuất hiện những tin chia buồn về vụ một tàu ngầm chìm ở Biển Đông vào năm 1983, cùng với các nhà khoa học và công trình sư hàng đầu làm nhiệm vụ phát triển tên lửa đường đạn cho tàu ngầm nguyên tử mang tên lửa đường đạn của hải quân Trung Quốc. Chắc chắn, họ đã trở thành nạn nhân của vụ va chạm với tàu ngầm K-10. Tại sao các chuyên gia thủy âm Liên Xô và Trung Quốc đã không nghe thấy nhau? Có lẽ, cơn bão cuồng loạn trên mặt biển đã gây nhiễu đối với hoạt động của trạm thủy âm.
Việc khôi phục trường phái nghiên cứu của các nhà khoa học và công trình sư phát triển tên lửa đường đạn phóng tàu ngầm Trung Quốc tử nạn đòi hỏi mất nhiều thời gian. Và yếu tố này đến nay vẫn ảnh hưởng đến khả năng sẵn sàng của hệ thống tàu ngầm chiến lược Trung Quốc.
Tàu ngầm diesel mang tên lửa đường đạn lớp Projekt 629 (Golf). Lượng giãn nước 3.553 tấn, chiều dài 98,8 m, tốc độ chạy ngầm tối đa 12,5 hải lý/h, thời gian hoạt động độc lập 70 ngày đêm. Thủy thủ đoàn 87 người. Vũ khí: 3 ống phóng trong phần bảo vệ các thiết bị thò thụt trên tháp chỉ huy dùng cho tên lửa đường đạn R-13 hay R-21, 4 ống phóng lôi ở mũi và 2 ống phóng lôi ở đuôi cỡ 533 mm. Liên Xô đã đóng cho hải quân nước này 21 tàu; và 2 tàu cho hải quân Trung Quốc với các bệ phóng tên lửa đường đạn R-11 tầm bắn 150 km.
Còn tàu ngầm điện-diesel mang tên lửa Trung Quốc đã va chạm với K-10 cũng là tàu ngầm Liên Xô. Đúng hơn là nó được lắp ráp theo thiết kế Projekt 629 tại Trung Quốc từ các linh kiện do Liên Xô cung cấp.
Ở Trung Quốc, tàu này được đặt ký hiệu Type 6631 và số hiệu 208. Sau này, ở Đại Liên, Trung Quốc đã lắp một tàu ngầm cùng loại khác có số hiệu 200. Chúng là những thành quả nổi bật cuối cùng của “tình hữu nghị Trung-Xô không gì phá vỡ nổi”. Hải quân Trung Quốc đã sử dụng các tàu ngầm Type 6631 mà sau này được đặt tên là Type 031 làm giá thử bắn các tên lửa đường đạn. Tàu mang số hiệu 200 đến nay vẫn được sử dụng để thử tên lửa đường đạn JL-2.
Hiển nhiên là ban lãnh đạo Trung Quốc nhận thức được sự cần thiết phải đưa lực lượng tàu ngầm chiến lược của hải quân Trung Quốc lên trình độ cao nhất thế giới. Và vì thế mà chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình khi thăm căn cứ Tam Á đã thăm chính tàu ngầm nguyên tử mang tên lửa đường đạn Trường chinh 9, còn các tàu khác ông ta chỉ xem.
Theo trang Strategy Page (Mỹ), hiện Trung Quốc đang ráo riết nghiên cứu chế tạo tàu ngầm nguyên tử mang tên lửa đường đạn thế hệ 3 lớp Type 096. Tàu sẽ sử dụng các lò phản ứng hạt nhận công suất lớn mới, các lớp phủ hấp thụ tiếng ồn, các trạm thủy âm hiện đại, các hệ thống điều khiển tàu ngầm tiên tiến và tổng thành, tổ máy công nghệ cao khác. Nghĩa là tàu ngầm lớp Type 096 sẽ là tàu ngầm hạt nhân chiến lược rất hoàn thiện.
Một số nguồn tin khẳng định rằng, việc đóng tàu Type 096 đã được bắt đầu. Tàu sẽ được trang bị 24 tên lửa đường đạn JL-3 tầm bắn hơn 10.000 km.
Để theo dõi các tàu ngầm này, Hải quân Mỹ sẽ buộc phải phái thêm tàu nổi, tàu ngầm và máy bay chống ngầm. Lúc đó, sẽ khó có thể phong tỏa hải quân đối với Trung Quốc.
Tàu ngầm diesel mang tên lửa đường đạn số 200 lớp Type 031 đến nay vấn được hải quân Trung Quốc sử dụng để thử nghiệm tên lửa đường đạn JL-2. Trên tàu có 1 bệ phóng cho tên lửa này.
Còn một yếu tố khác được Sean Mirski lưu ý trong bài báo của mình. Theo khẳng định của ông ta, yếu tố chính trị then chốt quyết định thành công của phong tỏa hải quân đối với Trung Quốc là khả năng của Mỹ lôi kéo được Nga tham gia phong tỏa. Quả thực, nếu không có điều kiện này, thì thật hài hước để nói về việc cô lập Trung Quốc. Liên bang Nga là một trong những nhà cung cấp tài nguyên năng lượng lớn nhất cho Trung Quốc và nó không được vận chuyển bằng đường biển mà qua các đường ống và đường sắt.
Tuy nhiên, Nga sẽ không thể tham gia phong tỏa hải quân chống Trung Quốc. Đơn giản là Nga không có tàu để làm việc đó.
Sự gia tăng sức mạnh quân sự của Trung Quốc, trong đó có việc triển khai những đơn vị và binh đoàn được huấn luyện và trang bị tốt nhất, trong đó có các đơn vị tăng-thiết giáp, ở gần biên giới hai nước, hiển nhiên cũng khiến Moskva lo lắng. Đó là nơi mà nước Nga chẳng có gì để tự vệ.
Tàu chống ngầm cỡ lớn Đô đốc Levchenko trong cuộc tập trận chung với tàu tuần dương tên lửa Hue City của Hải quân Mỹ
Nhưng Trung Quốc cũng có gót chân Achiles của mình. Dân số 1,5 tỷ của họ đang sống ở một nửa lãnh thổ đất nước, chủ yếu ở vùng duyên hải và thung lũng các con sông, bởi vì nửa lãnh thổ còn lại hầu như không phù hợp để sinh sống. Và điều đó tạo ra những điều kiện lý tưởng để thực hiện các đòn tấn công hạt nhân vào một số những điểm hiểm yếu nhất. Một khi khai chiến, Trung Quốc sẽ hứng chịu những tổn thất kinh hoàng, không thể so sánh nổi. Và ở Bắc Kinh, tuy là tràn đầy tinh thần Maosim, người ta đã luôn hiểu điều đó và nay họ cũng hiểu.
Hiển nhiên là vấn đề sức mạnh quân sự gia tăng của Trung Quốc vẫn tồn tại. Và những bước đi có bàn, thống nhất nhằm kiềm chế sức mạnh đó thì cần phải tìm ra, nhưng phải trên cơ sở hai bên đều chấp nhận được. Hiện chưa thể làm được việc đó vì Washington và Moskva đều cố chơi còn bài Trung Quốc nhằm thu lợi cho mình, còn Bắc Kinh thì khôn khéo lợi dụng những mâu thuẫn Mỹ-Nga và bảo toàn lợi ích của mình rõ ràng đang chiếm thế thượng phong trong ván cờ này.
Tuy nhiên, cả ở đây cũng có thể xảy ra những chuyển động. Theo báo chí nước ngoài, Trung Quốc rõ ràng là bất mãn với kết quả của chuyến thăm Nga mới đây của Thủ tướng Nhật Shinzo Abe. Và không chỉ là vì trong hội đàm, hai bên đã đề cập đến khả năng ký hiệp định hòa bình Nhật-Nga, cũng như chương trình tham vọng Nga-Nhật phát triển các dự án năng lượng chung.
Nguyên nhân chủ yếu khiến Trung Quốc lo ngại là mưu toan của Tokyo, tức cũng là Washington, thiết lập một “vành đai địa-chính trị” xung quanh Trung Quốc, bởi lẽ chỉ có nước Nga có khả năng thay đổi cán cân sức mạnh chiến lược không vững chắc ở châu Á.
Hải quân Nga - Trung Quốc trong một cuộc tập trận chung.
Theo VietNamDefence
Comments[ 0 ]
Post a Comment