Đối ngoại Quốc phòng-Thành tựu và những vấn đề đặt ra trong thời kỳ hội nhập và phát triển
Friday, December 12, 2014
Đối ngoại quốc phòng là một bộ phận quan trọng của nền ngoại giao Nhà nước, thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng và những nội dung liên quan, nhằm xây dựng lòng tin, thiết lập và phát triển quan hệ về quốc phòng với tất cả các nước trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước, xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, an ninh ở khu vực và trên thế giới.
Sĩ quan, thủy thủ Bru-nây thăm tàu HQ-012 Lý Thái Tổ của Hải quân Việt Nam tại cảng Muara, Bru-nây tháng 11-2014. Ảnh: Ngọc Hưng.
1. Thành tựu nổi bật của đối ngoại quốc phòng thời gian qua
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Quân ủy Trung ương, cùng với các hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước và đối ngoại nhân dân, đối ngoại quốc phòng đã có bước phát triển mới, góp phần giữ vững ổn định chính trị để xây dựng đất nước, nâng cao uy tín và vị thế của đất nước và Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam trên trường quốc tế. Đối ngoại quốc phòng không ngừng được mở rộng trên nhiều lĩnh vực (quốc phòng, quân sự, kinh tế, khoa học và công nghệ), phát triển cả bề rộng và chiều sâu, góp phần tích cực vào việc thực hiện thắng lợi đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, theo tinh thần “Việt Nam là bạn với tất cả các nước, các dân tộc trên thế giới”, từng bước đưa nước ta hội nhập với thế giới, tạo dựng và củng cố môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và đạt được những thành tựu quan trọng.
Đối ngoại quốc phòng đã góp phần bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và các lợi ích quốc gia, dân tộc
Xác định được tầm quan trọng đặc biệt của đối ngoại quốc phòng trong việc bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, trong những năm qua, quan hệ hợp tác quốc phòng của Việt Nam với các nước láng giềng có biên giới liền kề luôn luôn được chú trọng, từng bước đi vào thực chất, đồng thời mở ra nhiều lĩnh vực và hướng hợp tác mới, góp phần giải quyết các vấn đề về biên giới, lãnh thổ, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn, hoạt động xâm phạm chủ quyền, biên giới, xây dựng đường biên giới trên bộ hòa bình, ổn định, hợp tác, hữu nghị và phát triển. Cho đến nay, Việt Nam đã hoàn thành công tác phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc, thực hiện tốt các văn kiện về quản lý biên giới trên bộ đã ký giữa hai nước; đồng thời hoàn thành công tác tăng dày, tôn tạo hệ thống cột mốc biên giới Việt Nam-Lào; đạt nhiều tiến triển trong việc phân giới cắm mốc biên giới trên bộ Việt Nam - Cam-pu-chia. Các hoạt động tuần tra chung trên bộ, trên biển; thiết lập đường dây nóng với hải quân các nước; đấu tranh với các loại tội phạm buôn lậu, xâm nhập biên giới trái phép; giao lưu, kết nghĩa giữa các đơn vị làm nhiệm vụ bảo vệ biên giới… đã được Việt Nam và các nước bạn phối hợp triển khai hiệu quả, tạo cơ sở để kiểm soát và giải quyết các vụ việc ngay từ khi mới phát sinh, không để ảnh hưởng đến hòa bình, ổn định và quan hệ hữu nghị giữa các nước.
Trong thời gian qua, việc gặp gỡ, tiếp xúc giữa các quân khu, các địa phương của Việt Nam có đường biên giới với Trung Quốc, Bộ tư lệnh Bộ đội Biên phòng, các đồn, trạm biên phòng Việt Nam với hai quân khu Quảng Châu và Thành Đô (Trung Quốc) được duy trì thường xuyên, góp phần xây dựng quan hệ hữu nghị, tin cậy - nhân tố quan trọng để xây dựng biên giới phía Bắc hòa bình, ổn định và phát triển. Kể từ khi ký Thỏa thuận hợp tác Biên phòng Việt-Trung (năm 2007), Bộ đội Biên phòng các tỉnh giáp biên có thêm cơ sở pháp lý quốc tế để tăng cường tuần tra liên hợp trên bộ, góp phần quản lý, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, bảo vệ đường biên mốc giới, ngăn chặn và đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm xâm nhập từ nước ngoài vào Việt Nam.
Việt Nam đã giúp Lào xây dựng một số công trình quốc phòng và cụm bản hậu phương chiến lược tại những địa bàn nhạy cảm; xây dựng, củng cố chính quyền cơ sở, xây dựng cụm bản gắn phát triển kinh tế-xã hội với quốc phòng, an ninh, góp phần ổn định tình hình ở một số vùng phức tạp, tạo ra những chuyển biến tích cực về đời sống nhân dân, các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế... Đặc biệt, Việt Nam giúp Lào nắm và quản lý địa bàn, củng cố hệ thống tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể ở các địa phương, nắm dân, dựa vào dân để tuyên truyền vận động, phát hiện, giáo dục, thuyết phục, bắt giữ, tiêu diệt bọn đầu sỏ trong lực lượng phản động. Hiện nay, tuyến biên giới Việt Nam-Lào thực sự là tuyến biên giới hòa bình, ổn định giữa hai nước.
Các quân khu giáp biên và lực lượng Biên phòng Việt Nam và Cam-pu-chia đã triển khai các biện pháp duy trì ổn định vùng biên giới, thúc đẩy công tác phân giới, cắm mốc theo đúng tiến độ Chính phủ hai nước đã thỏa thuận. Các Quân khu: 5, 7, 9 tích cực trợ giúp, phối hợp chặt chẽ với các quân khu giáp biên của Cam-pu-chia kịp thời giải quyết những vấn đề phát sinh trên tuyến biên giới và trong nội địa, luôn chủ động trong mọi tình huống, không để bị động, bất ngờ xảy ra, phấn đấu xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định và phát triển.
Hiện nay, tranh chấp trên Biển Đông là một trong những vấn đề quan trọng nhất trong việc giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; đồng thời là vấn đề rất nhạy cảm và phức tạp. Để góp phần từng bước giải quyết những tranh chấp này, đối ngoại quốc phòng đã tích cực tham mưu cho Đảng và Nhà nước những quyết sách, biện pháp đấu tranh hòa bình phù hợp với tình hình thực tế, luôn đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên hàng đầu; kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của nước ta trên cơ sở luật pháp quốc tế. Trước các hành động xâm phạm của Trung Quốc đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam thời gian qua, Việt Nam kiên trì và kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng bằng biện pháp hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế, nhằm bảo vệ quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, bảo đảm các hoạt động kinh tế, bảo vệ ngư dân phát triển kinh tế biển.
Trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập sâu hơn vào khu vực và thế giới, các vấn đề liên quan tới quốc phòng, an ninh của Việt Nam ngày càng có liên kết chặt chẽ với các vấn đề quốc phòng, an ninh của các nước láng giềng, khu vực và quốc tế. Do vậy, đối ngoại quốc phòng đã chủ động phối hợp chặt chẽ với hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước, ngoại giao nhân dân, tạo thành sức mạnh tổng hợp, hình thành thế trận ngoại giao giải quyết những nguy cơ về quốc phòng và xung đột quân sự bằng biện pháp hòa bình, góp phần phòng ngừa vững chắc, ngăn chặn từ xa các hoạt động xâm phạm chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ vững chắc nền độc lập, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ và các lợi ích quốc gia, dân tộc.
Đối ngoại quốc phòng đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng, củng cố lòng tin chiến lược với các nước, các tổ chức quốc tế, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước và QĐND Việt Nam trên trường quốc tế, góp phần duy trì môi trường hòa bình để phát triển đất nước
Hội nhập quốc tế là xu thế tất yếu của thời đại ngày nay. An ninh của mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam giờ đây luôn được đặt trong tổng thể an ninh chung của cả khu vực. Chính vì thế, để thực hiện mục tiêu phát triển của mình, đồng thời góp phần xây dựng một khu vực hòa bình, hữu nghị và thịnh vượng, các nước trong khu vực cần phải tăng cường hợp tác trên các diễn đàn đa phương để duy trì sự đồng thuận, cũng như phối hợp hành động trên các lĩnh vực cùng quan tâm.
Nhận thức sâu sắc xu thế đó, đối ngoại quốc phòng đã chủ động mở rộng quan hệ song phương với các nước trên thế giới. Tính đến nay, Việt Nam đã có quan hệ quốc phòng với 80 nước, bao gồm cả các cường quốc trên thế giới; đã thiết lập tùy viên quốc phòng Việt Nam tại 32 nước và có 45 nước thiết lập tùy viên quốc phòng hoặc kiêm nhiệm tại Việt Nam. Quan hệ quốc phòng của Việt Nam với các nước ngày càng đi vào thực chất, hiệu quả hơn; nhiều văn bản hợp tác đã được ký kết, nhiều cơ chế đối thoại, tham vấn đã được thiết lập và triển khai. Quan hệ hợp tác quốc phòng được nhiều nước đối tác coi là một trong những trụ cột quan trọng trong quan hệ hợp tác với Việt Nam. Bên cạnh đó, Việt Nam đã chủ động, tích cực tham gia vào các hoạt động hợp tác quốc phòng đa phương khu vực, thế giới. Từ chỗ chỉ tham gia với tư cách là quan sát viên, khách mời danh dự, Việt Nam đã chủ động tham gia một cách tích cực, có trách nhiệm và đã đưa ra những quan điểm, sáng kiến có giá trị tại các diễn đàn quốc phòng an ninh đa phương khu vực và quốc tế như: Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN (ADMM), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+), Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Đối thoại Shangri-La… được bạn bè quốc tế đánh giá cao.
Tháng 5-2014, Việt Nam đã thành lập Trung tâm gìn giữ hòa bình để nâng cao chất lượng điều hành và huấn luyện nhân sự, đáp ứng cao nhất các yêu cầu tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Việt Nam đã cử một sĩ quan làm đại diện quân sự tại phái đoàn thường trực của Việt Nam tại Liên hợp quốc và hai sĩ quan tham gia phái bộ của Liên hợp quốc tại Nam Xu-đăng. Đây là sự thể hiện một cách sinh động nhất trách nhiệm của Việt Nam trong việc xây dựng lòng tin, duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới; thể hiện tinh thần tích cực chủ động hội nhập quốc tế về quốc phòng của Đảng và Nhà nước Việt Nam, nâng cao uy tín của đất nước và QĐND Việt Nam trên trường quốc tế.
Đối ngoại quốc phòng góp phần tăng cường tiềm lực quân sự, quốc phòng, xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Thông qua hợp tác quốc tế, cán bộ, chiến sĩ QĐND Việt Nam có điều kiện để tìm hiểu và hiểu biết thêm về quân đội các nước trong khu vực và trên thế giới, về tổ chức quân đội, vũ khí trang bị của nước ngoài, góp phần nâng cao nhận thức về các loại trang thiết bị quân sự hiện đại, đồng thời thấy được tầm quan trọng của việc học tập và tự học để không ngừng nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu hoàn thành nhiệm vụ của quân đội trong giai đoạn cách mạng mới, góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, củng cố niềm tin vào thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong những năm qua, Việt Nam đã gửi một số lượng lớn cán bộ, sĩ quan đi đào tạo ở nước ngoài. Tham gia các hoạt động hợp tác với quân đội các nước là cơ hội để cán bộ, chiến sĩ QĐND Việt Nam thể hiện phẩm chất và năng lực của Bộ đội Cụ Hồ. Đây là cơ hội để cán bộ, chiến sĩ ta trải nghiệm thực tế, nâng cao hiểu biết về luật pháp quốc tế, kinh nghiệm hoạt động trong môi trường quốc tế; kiến thức và kỹ năng phối hợp hoạt động của các lực lượng đa quốc gia và tiếp xúc với những kiến thức, kỹ thuật quân sự mới. Đây cũng là cơ hội để cán bộ, chiến sĩ QĐND Việt Nam rèn luyện và thử thách trong môi trường quốc tế phức tạp, khó khăn. Qua thực tế tiếp xúc với quân đội và nhân dân các nước, cán bộ, chiến sĩ QĐND Việt Nam sẽ được rèn luyện và nâng cao khả năng chỉ huy, tổ chức, hiệp đồng, cơ động và trình độ đối phó với các tình huống xảy ra.
Bên cạnh hoạt động hợp tác đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho quân đội, Việt Nam còn đẩy mạnh quan hệ thương mại quốc phòng nhằm cung cấp cho quân đội những trang thiết bị, vũ khí phù hợp với yêu cầu tác chiến. Trong khi duy trì các mối quan hệ thương mại với các bạn hàng truyền thống, Việt Nam đã mở rộng quan hệ thương mại với các đối tác có tiềm năng, thực hiện kết hợp chặt chẽ các hoạt động thương mại, kinh tế và hợp tác công nghiệp quốc phòng với các hoạt động hợp tác quốc phòng khác thành một thể thống nhất để thực hiện các mục tiêu hội nhập quốc tế về quốc phòng.
Việt Nam đã chú trọng hợp tác công nghiệp quốc phòng với tất cả các nước trên cơ sở tuân thủ những quy định của luật pháp quốc tế theo hướng thúc đẩy chuyển giao công nghệ, tăng cường tiếp thu, áp dụng các quy trình quản lý, sản xuất tiên tiến theo cơ chế thị trường; tín dụng ưu đãi, thực hiện cùng hợp tác sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Hợp tác công nghiệp quốc phòng của Việt Nam với các nước lớn, những nước công nghiệp phát triển, các nước bạn bè truyền thống cũng được quan tâm thúc đẩy bằng nhiều nội dung, phương thức hợp tác mới. Thông qua hợp tác, Việt Nam đã tranh thủ được các nguồn lực về vốn, khoa học - công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến... để từng bước tự chủ, bảo đảm trang bị, vũ khí, khí tài ngày càng hiện đại cho quân đội, phù hợp với điều kiện và nghệ thuật quân sự Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Đối ngoại quốc phòng góp phần đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, bảo vệ Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa và ổn định chính trị để phát triển đất nước, góp phần quan trọng thực hiện nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
Trong những năm gần đây, thông qua hoạt động “diễn biến hòa bình”, những thế lực thù địch đã không từ một thủ đoạn nào, tiến công chống phá Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh với tính chất, cường độ hoạt động ngày càng manh động, quyết liệt, thâm độc hơn. Chúng dùng nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt thông qua đường ngoại giao, du lịch, hợp tác quốc tế, thương mại, đầu tư... để thâm nhập, mua chuộc, can thiệp sâu vào công việc nội bộ của Việt Nam nhằm thúc đẩy nhanh quá trình “tự diễn biến” trong lòng xã hội ta, làm biến chất chế độ, suy giảm tiềm lực chính trị-tinh thần của đất nước; từ chệch hướng về kinh tế dẫn đến chệch hướng về chính trị. Thông qua các tổ chức kinh tế-tài chính và các định chế tài chính thế giới để gây sức ép với ta về kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh. Ngoài ra, chúng còn sử dụng các chiêu bài dân chủ, nhân quyền, dân tộc và tôn giáo để kích động, chia rẽ, khoét sâu mâu thuẫn nội bộ ta, nhen nhóm lực lượng phản động bên trong, cấu kết với các thế lực bên ngoài tạo cớ tiến hành bạo loạn lật đổ kết hợp với can thiệp vũ trang bằng nhiều hình thức và quy mô khi có điều kiện.
Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh
Để phòng, chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, trong quá trình triển khai hoạt động đối ngoại quốc phòng, Việt Nam đều gắn với công tác thông tin tuyên truyền đối ngoại làm cho mọi tầng lớp nhân dân và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài hiểu rõ hơn về đường lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về chính sách quốc phòng và hoạt động đối ngoại quốc phòng của QĐND Việt Nam, qua đó, tạo sự tin tưởng, ủng hộ và đoàn kết của các tầng lớp nhân dân đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, góp phần chống lại những luận điệu xuyên tạc, đòi thực hiện chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, đòi “phi chính trị hóa” quân đội, chia rẽ Đảng, quân đội với nhân dân của các thế lực thù địch.
Bên cạnh đó, quan hệ hợp tác quốc phòng giữa Việt Nam và các nước ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất, hiệu quả đã giúp tăng cường sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau giữa quân đội và nhân dân Việt Nam với quân đội và nhân dân các nước, nhất là giúp cho dư luận, nhân dân, quân đội các nước hiểu rõ hơn về chủ trương, chính sách quốc phòng của Nhà nước Việt Nam, từ đó làm thất bại những luận điệu tuyên truyền, chống phá của các thế lực thù địch, góp phần bảo vệ Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.
2. Những vấn đề đặt ra đối với đối ngoại quốc phòng trong thời kỳ hội nhập và phát triển
Trong thời gian tới, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường. Khu vực châu Á-Thái Bình Dương tiếp tục phát triển năng động đồng thời cũng tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn tiếp tục diễn ra gay gắt. Cộng đồng ASEAN sẽ được hình thành vào cuối năm 2015 với ba trụ cột là: Cộng đồng chính trị-an ninh, Cộng đồng kinh tế và Cộng đồng văn hóa-xã hội. Đây là những cơ hội lớn để các nước trong khu vực mở rộng hợp tác, tranh thủ nguồn lực để phát triển, đồng thời cũng phải đối mặt với không ít thách thức. Những khác biệt về ưu tiên chiến lược, năng lực quốc gia giữa các nước trong ASEAN và những tồn tại về xung đột, tranh chấp lãnh thổ, thách thức an ninh phi truyền thống có xu hướng gia tăng đang và sẽ là những bài toán lớn đặt ra đối với các nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đang phải đối mặt với nguy cơ đe doạ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, sự lựa chọn định hướng chính trị, vai trò của Nhà nước... Các thế lực thù địch luôn xác định Việt Nam là một trong những mục tiêu “trọng điểm” chống phá trong chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm mục đích cuối cùng là xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng sẽ tiếp tục lợi dụng chủ trương mở rộng hội nhập quốc tế, mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới của Việt Nam để thực hiện xâm nhập, tuyên truyền và hướng Việt Nam theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản.
Trong bối cảnh đó, đối ngoại quốc phòng cần tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về mối quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế, giữa bảo vệ lợi ích quốc gia với đóng góp cho hòa bình, ổn định của khu vực và trên thế giới. Đối ngoại quốc phòng phải góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đối ngoại quốc phòng phải nắm vững và vận dụng các quan điểm của Đảng về đối tượng, đối tác được nêu rõ trong Nghị quyết 28 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Từ đó xác định đối tượng, đối tác để hợp tác và đấu tranh nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc. Đối ngoại quốc phòng phải thể hiện được quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân là đẩy lùi và ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh, bảo vệ môi trường hòa bình, ổn định cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước; góp phần tích cực trong thực hiện phương châm bảo vệ Tổ quốc từ xa. Đối ngoại quốc phòng phải sát cánh cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình”, tạo cớ để can thiệp vũ trang của các thế lực thù địch, đồng thời phát huy nội lực, không ngừng củng cố quốc phòng, an ninh, tăng cường khả năng sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi trong mọi tình huống. Để hoàn thành tốt các mục tiêu đó, trong thời gian tới, đối ngoại quốc phòng cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau đây:
Triển khai nhiệm vụ hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng theo đúng tinh thần Nghị quyết 28 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; Nghị quyết số 22-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế và đặc biệt là Nghị quyết số 806-NQ/QUTW của Quân ủy Trung ương về hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo.
Tăng cường hợp tác quốc phòng song phương với những nước có biên giới liền kề, các nước lớn, các nước ASEAN và các nước bạn bè truyền thống đi vào chiều sâu, ổn định và bền vững. Xây dựng đề án, kế hoạch cụ thể quan hệ quốc phòng song phương với các đối tác quan trọng, trong đó chú trọng hợp tác trao đổi trong công tác nghiên cứu chiến lược, hiện đại hóa quân đội và tăng cường khả năng phòng thủ của đất nước.
Chủ động tham gia và đóng góp sáng kiến, định hình luật chơi chung cho các cơ chế hợp tác quốc phòng của ASEAN và do ASEAN giữ vai trò chủ đạo, đồng thời từng bước tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc.
Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu, dự báo tình hình và tham mưu chiến lược, theo dõi sát tình hình Biển Đông; tăng cường công tác phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị làm công tác hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng, đồng thời tăng cường phối hợp với các bộ, ngành, địa phương có liên quan trong triển khai thực hiện nhiệm vụ đối ngoại quốc phòng.
Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện cơ chế, chính sách và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hội nhập quốc tế về quốc phòng. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền đối ngoại quốc phòng, tạo sự đồng thuận trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đối với chủ trương hội nhập quốc tế về quốc phòng của Đảng và Nhà nước; đồng thời chú trọng công tác tuyên truyền chủ trương hội nhập quốc tế về quốc phòng, chính sách quốc phòng vì hòa bình, tự vệ của Việt Nam đến các đối tác và cộng đồng quốc tế.
Kiện toàn hệ thống các cơ quan, đơn vị làm công tác hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng; đồng thời, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng cán bộ quân đội trực tiếp làm công tác đối ngoại, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
Thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước về hội nhập quốc tế, đối ngoại quốc phòng đã nỗ lực phấn đấu và đạt được những thành tựu bước đầu quan trọng, góp phần nâng cao vị thế của đất nước và QĐND Việt Nam trên trường quốc tế. Kế thừa và phát huy thành tựu đạt được, Việt Nam cần mở rộng hội nhập quốc tế trên lĩnh vực đối ngoại quốc phòng với các nước trên thế giới nhằm củng cố hòa bình, ổn định, tạo thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thượng tướng NGUYỄN CHÍ VỊNH-Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng
Theo QĐND
Tags:
Chính Trị Quốc Phòng
Comments[ 0 ]
Post a Comment