'Át chủ bài' phòng thủ biển Đông (kỳ I)
Tuesday, June 11, 2013
Trong chiến tranh hiện đại, lực lượng không quân và không quân hải quân đóng vai trò quyết định sự thành bại của chiến trường trên biển và trên đất liền.
Quân chủng hải quân Việt Nam đang có những bước trường thành vượt bậc trong những năm gần đây. Từ những xuồng phóng lôi với lượng giãn nước nhỏ, hải quân Việt Nam đã được biên chế những khí tài, phương tiện chiến đấu hiện đại như tàu hộ vệ tên lửa Gerpard 3.9, chiến hạm tên lửa cao tốc 'Tia chớp' Molnya 1241.8, trên biển trời là những 'hổ mang chúa' tiêm kích đa nhiệm Su -30 MK2, tiêm kích đánh chặn Su-27, cường kích chuyên đánh biển Su-22M của không quân yểm trợ...
Trong tương lai gần, rất có thể quân chủng Hải quân sẽ được biên chế đầy đủ các binh chủng bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, trong các lực lượng đó có lực lượng Không quân Hải quân.
Không quân và tác chiến không - hải
Trong chiến tranh hiện đại, lực lượng không quân và không quân hải quân đóng vai trò quyết định sự thành bại của chiến trường trên biển và trên đất liền. Thông thường, trong các trận chiến đấu trên biển, tính từ năm 1941 đến nay, sự thành bại phụ thuộc hoàn toàn vào hiệp đồng tác chiến chặt chẽ giữa các lực lượng không quân - không quân hải quân, hải quân và lực lượng pháo binh - tên lửa phòng thủ bờ biển.
Kinh nghiệm các cuộc xung đột vũ trang hiện đại sau đại chiến thế giới lần thứ hai cho thấy: Lực lượng không quân đóng vai trò quyết định trong các trận chiến. Hoạt động của KQ (không quân) và KQHQ (không quân hải quân) quyết định thắng lợi trong mọi chiến dịch của hầu hết các cuộc chiến tranh hiện đại. Hiệu quả của các cuộc tập kích đường không của KQHQ và KQ của quân đội Mỹ vào các mục tiêu quan trọng trong chiến tranh Nam Bắc Triều Tiên (1950 – 1953) được đánh giá rất cao. Những cuộc không kích của máy bay hải quân Mỹ từ hướng biển kết hợp với pháo hạm đã yểm trợ hỏa lực cho bộ binh Mỹ trên toàn bộ chiến trường Việt Nam và gây nhiều khó khăn cho các chiến dịch của Quân Giải phóng (1964 – 1975).
Hạm đội 6 của Hải quân Mỹ và lực lượng Không quân Mỹ đã tấn công hiệu quả các mục tiêu của Libya trong chiến dịch "Gold Canyon" (04. 1986), Không quân Argentina đánh chìm tàu khu trục tên lửa của Anh "Sheffield" bằng tên lửa chống tàu "Exocet" (Quần đảo Falkland, 1982). Trong các chiến dịch không hải gần đây nhất của Mỹ như: Iraq ("Bão táp sa mạc" - 1991, "Con cáo sa mạc" - 1998, "Sốc và kinh hoàng" - 2003), Nam Tư ("Allied Force" - 1999) và Afghanistan ("Tự do Bền vững "- 2001).
Không quân Hải quân Mỹ trở thành lực lượng tác chiến chủ đạo, triển khai các đòn tấn công ồ ạt bằng bom có điều khiển và tên lửa vào các mục tiêu quan trọng của đối phương.
Lực lượng không quân hải quân là linh hồn của các cụm tàu sân bay xung kích Mỹ, đủ khả năng can thiệp vũ trang vào bất kỳ khu vực nào trong trường hợp cần thiết.
Trong giai đoạn ngày nay, ở các nước cường quốc quân sự hải dương, cùng với những tài liệu chỉ đạo về tư duy chiến lược, chiến dịch đồng thời các kinh nghiệm huấn luyện thực hành sẵn sàng chiến đấu của hạm đội, những nhiệm vụ đặt ra cho Hải quân, Không quân Hải quân phải tiếp nhận từ 30 – 45% nhiệm vụ thời bình và từ 40 – 60% nhiệm vụ thời chiến.
Trong điều kiện chiến tranh, các hạm đội nếu không có sự yểm hộ của không quân hải quân hoàn toàn không có khả năng thực hiện những nhiệm vụ chiến đấu quan trọng trên biển, không thể phòng ngự chống lại các đòn tấn công đường không của đối phương, không bảo vệ được các hải đoàn tàu ngầm mang tên lửa cấp chiến lược chiến dịch, không có khả năng tấn công các cụm hải quân chủ lực của đối phương và không đánh chặn, tấn công được các đoàn tàu vận tải quân sự của địch.
Trong các tài liệu quân sự của các cường quốc hải quân thế giới, bao gồm cả tài liệu hướng dẫn tiến hành các hoạt động tác chiến của Lực lượng vũ trang Liên bang Nga có chỉ rõ: Các cuộc chiến đấu trên bộ, trên biển sẽ được chuyển hướng thành các cuộc chiến đấu trên không và trên vũ trụ.. Vào những năm đầu của thế kỷ 21, vai trò kiểm soát bầu trời là yếu tố tiên quyết để dành thắng lợi trong các trận chiến đấu trên không và trên biển trong chiến tranh hiện đại. Trong báo cáo về học thuyết hiện đại hóa quân đội Liên bang Nga (Ngày 2.10.2003), bộ trưởng bộ quốc phòng liên bang Nga Sergei Ivanov nhận định "Chiến tranh của các cường quốc quân sự trong thế kỷ 21 sẽ ưu tiên hàng đầu cho các lực lượng không quân và các đòn tấn công chủ lực sẽ bao gồm lực lượng tấn công chủ lực đường không...”.
Như vậy, vấn đề đặt ra là trong các hoạt động tác chiến trên biển, không quân phải là lực lượng chủ chốt, chứ không đóng vai trò lực lượng yểm trợ hỏa lực cho các chiến hạm nổi và các tàu ngầm. Thành công trong các trận chiến trên biển, hiệu quả các đòn tấn công tiêu diệt được lực lượng hải quân đối phương phải được tiến hành trong cả ba môi trường tác chiến: trên không, trên mặt biển và dưới biển.
Kinh nghiệm các cuộc chiến tranh trên biển tính từ đại chiến thế gới lần thứ 2 cho thấy, hoạt động tác chiến của không quân trên biển rất đặc thù, đòi hỏi có sự chuẩn bị và huấn luyện riêng biệt, những chương trình huấn luyện không quân theo phương pháp huấn luyện chung nhằm mục đích tác chiến với các đối tượng và trên đất liên cho thấy hoàn toàn không phù hợp. Không phải là tình cờ trong quá trình chiến tranh thế giới lần thứ II, người Mỹ đã tổ chức biên chế lực lượng không quân Hải quân, duy trì và phát triển đến tận ngày nay.
Binh chủng 'ruột' của hải quân
Kinh nghiệm sâu sắc nhất là các trận chiến đấu trên biển trong đại chiến thế giới lần thứ II trên Thái bình Dương. Các cuộc chiến đấu không – hải đã chỉ ra rằng, hiệu quả tác chiến của các hệ thống chủ đạo và các hệ thống thứ cấp trong trường hợp tác chiến không – hải là hạm đội và lực lượng không quân hải quân. Trong điều kiện ngược lại, các lực lượng mặt nước và dưới mặt nước sẽ gặp khó khăn nghiêm trọng khi tiến hành thực hiện các nhiệm vụ được giao.
Trong các trận chiến đấu trên biển của các lực lượng, do quan hệ trực thuộc quá nhiều, ví dụ như tư lệnh không quân có thể giao nhiệm vụ phối thuộc cho hải quân, nhưng hải quân lại có những yêu cầu tác chiến khác hơn cho không quân. Vấn đề không đồng nhất trong mệnh lệnh sẽ dẫn đến nguy cơ không hoàn thành nhiệm vụ hoặc bị tổn thất lực lượng. Do đó, không quân hải quân khi hiệp đồng tác chiến với hạm đội, thông thường là lực lượng theo nguyên tắc hiệp đồng binh chủng, và không quân hải quân cũng là lực lượng tác chiến chủ lực.
Cũng cần nhìn nhận thêm những kinh nghiệm của Mỹ trong thế chiến thứ 2, Bộ tư lệnh lực lượng quân đội Mỹ, hiểu rõ vị trí, vai trò của không quân hải quân như là một binh chủng “ruột” của quân chủng Hải quân, đã tiến hành những đợt huấn luyện chỉ huy chuyên sâu cho các đô đốc hạm đội về lĩnh vực KQHQ. Từ tháng 8.1943, từ 146 sĩ quan cao cấp hải quân chỉ có 17 sĩ quan có bằng lái máy bay của không quân hải quân, nhưng đến tháng 3.1945, trong số 302 sĩ quan cao cấp hải quân đã có tới 59 người có bằng lái máy bay của KQHQ, bằng 19,6%. Từ góc độ này có thể rút ra kết luận, những nhiệm vụ tác chiến trên biển lớn, thuộc lực lượng KQHQ, nêu giao cho các đơn vị Không quân, không thuộc thành phần binh chủng của quân chủng HQ, sẽ không đạt hiệu quả tác chiến, mà còn có thể không hoàn thành nhiệm vụ.
Như vậy, các nhiệm vụ tác chiến đường không trên biển lớn cần được giao cho lực lượng KQHQ như một binh chủng cấu thành của quân chủng Hải quân; các đơn vị của KQHQ cần được huấn luyện và thực hành diễn tập với tư cách là lực lượng tác chiến biển theo các nhiệm vụ chiến đấu khác nhau trên cơ sở hiệp đồng binh chủng và phối thuộc trong các điều kiện chiến trường như: Yểm trợ; trực thuộc hoặc là một lực lượng chiến đấu độc lập.
Trong Chiến tranh thế giới lần thứ II. KQHQ được biên chế thành những lực lượng: Không quân trinh sát và tuần biển, không quân cường kích ném bom, không quân rải mìn và ngư thủy lôi,không quân tiêm kích. Phân tích biên chế tổ chức và yêu cầu nhiệm vụ của các phân đội cho thấy chúng được biên chế theo kinh nghiệm chiến đấu và quyết sách của người tư lệnh. Khi biên chế các đơn vị KQHQ thường theo kinh nghiệm tác chiến và những đặc điểm tính chất yêu cầu nhiệm vụ, ví dụ: Không quân rải mìn và thủy lôi thông thường được rút ra từ biên chế của lực lượng không quân ném bom.
Từ những kinh nghiệm có được trong thực tế và tài liệu, người chỉ huy đã biên chế theo những tính năng chung (trần bay, tốc độ, tải trọng, tính cơ động,v.v)..được sử dụng như các chuẩn để tổ chức các phân đội tác chiến theo mục đích sử dụng, ví dụ: phân đội trinh sát có những tính chất nhiệm vụ khác với phân đội không quân ném bom hoặc tiêm kích, hoặc sự khác nhau giữa các loại vũ khí sử dụng (máy bay phóng, rải ngư thủy lôi với không quân tiêm kích), hoặc những tính năng kỹ chiến thuật của máy bay (không quân tiêm kích với lực lượng chống ngầm).
Máy bay chống ngầm P3 Orion.
Nhưng từ những phân tích đã nêu cho thấy không có những tiêu chí rõ ràng trong phân định các phân đội theo một chuẩn yêu cầu nhiệm vụ nhất định. Mà hoàn toàn phụ thuộc vào tính năng kỹ chiến thuật của các phương tiện bay, đồng thời phụ thuộc vào khí tài, vũ khí trang bị hoặc yêu cầu nhiệm vụ được giao. Trong giai đoạn ngày nay, thông thường có thể phân chia các phi đoàn KQHQ theo tính năng kỹ chiến thuật của phương tiện: Ví dụ tiêm kích Su-30MK có thể mang các loại tên lửa chống tàu, cũng có thể mang bom hoặc thủy lôi, hoặc tên lửa chống ngầm.
SU-30MK2 Việt Nam là máy bay chiến đấu đa nhiệm có thể tác chiến tốt cả trên không và trên biển.
Như vậy, Su-30MK có thể được tính như một máy bay đa nhiệm, có thể nằm trong biên chế của lực lượng không quân trinh sát hỏa lực, nhưng cũng có thể nằm trong biên chế của lực lượng cường kích chống tàu, các máy bay trực thăng KA-28 có thể làm nhiệm vụ vận tải, cứu hộ trên biển, nhưng khi lắp đặt các trang thiết bị, khí tài chống ngầm, có thể sẽ thực hiện nhiệm vụ chống ngầm, hoặc có thể thực hiện các nhiệm vụ khác như chống đổ bộ đường biển khi được lắp đặt tên lửa có điều khiển hoặc rockets.
Trực thăng đa nhiệm KA -28.
Trong giai đoạn ngày nay, do sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ và các cụm khí tài dạng module, các phân đội KQHQ sẽ được trang bị các máy bay chuyên dụng theo yêu cầu được giao (ví dụ: máy bay chống ngầm, máy bay tuần biển…) đồng thời cũng được biên chế các máy bay đa nhiệm (Su-24, Su-27, Su-30…).
Hiên nay, trong biên chế của lực lượng KQHQ, có thể tạm phân ra các lực lượng theo yêu cầu nhiệm vụ khác nhau, trong đó các lực lượng chuyên ngành vẫn được biên chế các phương tiện bay đa nhiệm. Đó là lực lượng trinh sát – tuần biển; lực lượng trinh sát – chống ngầm; lực lượng cường kích chống tàu – trong đó bao gồm cả các máy bay được trang bị thủy ngư lôi; lực lượng không quân tiêm kích đánh chặn; lực lượng tham mưu, điều hành tác chiến với các máy bay chỉ huy trên không (máy bay chỉ huy đặc chủng) ;lực lượng máy bay tác chiến điện tử; lực lượng máy bay vận tải – cứu hộ. Thông thường, các lực lượng – phân đội chuyên ngành được biên chế các máy bay chuyên ngành và đa nhiệm, ví dụ: lực lượng trinh sát có thể bao gồm các loại máy bay trinh sát – tác chiến điện tử, máy bay không người lái trinh sát quang ảnh và máy bay chiến đấu đa nhiệm mang vũ khí tấn công đường không….).
Mặc dù các phương tiện bay có thể đa nhiệm, đa năng. Nhưng với mỗi lực lượng, các phi công cần được huấn luyện chuyên sâu theo hướng thực hiện nhiệm vụ chủ yếu, đồng thời được huấn luyện mở rộng nhằm có thể thực hiện nhiệm vụ được giao. Ví dụ: lực lượng KQHQ tiêm kích sẽ được huấn luyện chuyên sâu về kỹ chiến thuật chiến đấu trên không trong điều kiện tác chiến trên biển lớn, nhưng cũng phải được tham gia huấn luyện phương pháp thực hiện nhiệm vụ chống ngầm hoặc tấn công chiến hạm nổi, máy bay tiêm kích hạng nặng Su- 27, 30MK cũng có thể được mang trang bị tên lửa chống ngầm khi thực hiện nhiệm vụ.
Kinh nghiệm chiến tranh thế giới thứ hai cũng cho thấy, theo mục đích yêu cầu nhiệm vụ có thể đặt trọng tâm vào một phân đội đặc chủng có chuyên ngành tác chiến riêng biệt, nhưng hầu hết các phân đội có chuyên ngành khác đều được điều động để tham gia tác chiến: Ví dụ như trong chiến tranh đã điều động 11 756 lần xuất kích của các phân đội KQHQ Liên Xô, trong đó không quân ngư lôi, thủy lôi – mìn chiếm khoảng 1979 lần, cường kích ném bom 1211, cường kích chống tàu 7501, tiêm kích đánh chặn – 847 lượt.
Tiến hành những hoạt động trinh sát không – biển 24 199 lần xuất kích, trong đó trinh sát hỏa lực của máy bay mang thủy ngư lôi chiếm – 356 lượt,máy bay cường kích ném bom - 538, máy bay cường kích chống tàu - 255, máy bay trinh sát vận tải - 580, máy bay tiêm kích - 13 263, máy bay trinh sát tuần biển - 7723 (thấp hơn nhiều so với máy bay tiêm kích). Như vậy rõ ràng, các nhiệm vụ tác chiến khác nhau sẽ có yêu cầu khác nhau về mức độ tham gia của các phương tiện bay, nhưng trong tất cả các nhiệm vụ tác chiến không hải đều có sự tham gia của hầu hết các phương tiện chiến đấu của KHHQ.
KQHQ cũng tham gia hầu hết các trận chiến đấu trên bộ, riêng KQHQ của Liên Xô trong các hoạt động tác chiến trên bộ, độc lập thực hiện nhiệm vụ hoặc hiệp đồng quân binh chủng, số lượt cất cánh lên đến 82 145 lần, chiếm khoảng 23,3% tổng số lần cất cánh của tất cả các loại máy bay chiến đấu trong chiến tranh thế giới lần thứ 2. Cũng phải thẳng thắn xác nhận, giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh hiệu quả tác chiến không cao, điều này được hiểu như là sự phân cấp yêu cầu nhiệm vụ của hai lực lượng. Không quân có nhiệm vụ tác chiến trên chiến trường trên bộ, KQHQ có nhiệm vụ tác chiến trên biển, các tư lệnh đã không dự đoán trước được những kịch bản chiến trường có thể xảy ra trong một cuộc chiến tranh mở rộng, và đã không huấn luyện cho các cánh bay của mình có khả năng tác chiến với mọi yêu cầu nảy sinh từ tính hình thực tế của chiến trường.
(còn nữa)
Trịnh Thái Bằng - TPO
Tags:
Biển Đông,
Chính Trị Quốc Phòng
Comments[ 0 ]
Post a Comment