Bẻ gãy cuồng vọng 'diều hâu' ở Biển Đông thế nào?
Wednesday, May 29, 2013
Ngày nay, khả năng xảy ra chiến tranh quy mô lớn trên biển rất thấp nhưng tranh chấp chủ quyền trên các vùng biển, vùng đặc quyền kinh tế, các đảo, quần đảo lại có xu hướng tăng mạnh.
Những điểm nóng trên Biển Đông, Biển Hoa Đông hoặc Biển Nhật Bản đều có thể có bùng phát thành xung đột vũ trang trên biển.
Trong các xung đột vũ trang, thậm chí có thể trở thành chiến tranh trên biển, yếu tố đảo, hải đảo đóng vai trò quyết định trong việc thành bại của cả một chiến lược hải dương, một chiến dịch kết hợp kinh tế, chính trị quân sự nhằm đạt một mục đích chỉ bằng một trận đánh trên biển. Không phải ngẫu nhiên mà Người Mỹ đã gọi Okinawa là tàu sân bay không thể đánh chìm. Với vị trí này, người Mỹ đã đặt quyền thống trị biển châu Á trong một thời gian rất dài.
Tàu sân bay USS Nimitz của Mỹ vừa tiến hành diễn tập trên khu vực Biển Đông khi tình hình căng thẳng giữa Trung Quốc và Philippines leo thang.
Do đó, trong chiến tranh hiện đại, để thực hiện các ý đồ chiến lược như: “Phòng thủ ngoài khơi xa”, “Thống trị biển khơi” “ Phòng thủ tích cực”….Các thế lực thù địch của các cường quốc quân sự với mưu đồ bá quyền - nước lớn sẽ sẵn sàng sử dụng vũ lực, trong tình huống thuận lợi, tiến hành các hành động xâm lược đánh chiếm các quần đảo, các đảo của các nước có chủ quyền, nhằm thỏa mãn ý đồ “quản lý là thống trị" các vùng biển có lợi ích về kinh tế, địa chính trị và phục vụ cho các mục đích chiến lược sau này.
Trong giai đoạn ngày nay, để biện minh trên trường thế giới cho những hành động xâm lược, các thế lực phản động hay đưa các cuộc xâm lược, các đòn tấn công thành các hình thức như “phản kích, tự vệ” hoặc biến thành chuyện “đã rồi” thành “vùng tranh chấp” nhằm thực hiện ý đồ của mình. Thông thường, các tranh chấp biển đảo hoặc các hành vi xâm lược sẽ bị lên án hoặc phản kháng, nhưng trong tình huống hải đảo, sự tranh chấp có thể kéo dài hoặc rất dài, trên thực tế các thể lực diều hâu nước lớn đã có những thành công nhất định trong việc xâm lấn chủ quyền. Một trong những bài học hiện nay là sự kiện Trung quốc – Philippines với bãi cạn Scarborough. Các tranh chấp vẫn có thể kéo dài đến vô cùng và nếu không có sự hiện diện của Mỹ, chắc chắn tình hình bãi cạn Scarborough sẽ khác rất nhiều.
Thông thường, để đánh chiếm một quần đảo hay một đảo trên biển khơi cần kết hợp nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, trong đó:
- Yếu tố khách quan: Đó là vị thế chính trị của nước đang nắm chủ quyền vùng nước, hải đảo trên trường thế giới, tình hình kinh tế chính trị nội bộ của đất nước, vị thế địa chính trị trong khu vực, tiềm lực quân sự, kỹ thuật quân sự và khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang, đội ngũ sĩ quan chỉ huy và trình độ, năng lực tổ chức điều hành tác chiến – không hải chiến, những yếu tố về địa hình, thủy văn vùng nước cũng như vị trí của đảo, quần đảo so với vùng nước cần thống trị và bờ biển của chủ thể sở hữu nó….Những yếu tố khách quan này quyết định sự thành công hay thất bại chính của một chiến dịch xâm lược biển khơi. Để một chiến dịch có thể thành công, tổng quan giá trị của tất cả các yếu tố khách quan phải rất thuận lợi, bao gồm cả yếu tố bất ngờ trong quan hệ song phương.
- Yếu tố chủ quan: Tiềm lực kinh tế chính trị của nước có thế lực “diều hâu” phải rất lớn, có ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế thế giới. Có lực lượng hải quân viễn dương rất mạnh, có khả năng tác chiến biển xa, đủ tiềm lực để tổ chức các cụm hải quân công kích chủ lực (AVG) bao gồm tàu sân bay (hạng nặng hoặc hạng nhẹ, tuần dương, khu trục tên lửa, hộ vệ, tàu đổ bộ và lực lượng lính thủy đánh bộ, lực lượng không quân hải quân tầm gần và tầm xa, tên lửa đạn đạo cấp chiến lược hoặc tên lửa hành trình), có lực lượng vũ khí chiến lược (vũ khí hạt nhân) và phương tiện mang làm công cụ răn đe. Hội tụ đủ các yếu tố đó, trên thế giới không nhiều các cường quốc có khả năng làm được điều này.
Tàu đổ bộ triển khai tấn công.
Trong giai đoạn ngày nay, khi các xu hướng chính trị trên thế giới luôn có những biến động, hình thành một thế giới đa cực, việc tiến hành một cuộc chiến tranh khu vực hoặc đơn giản chỉ là một hành động gây xung đột hoàn toàn không đơn giản, trò chơi đôi khi sẽ phải đối mặt với những cái giá vô cùng lớn. Do đó, để tiến hành một ý đồ gây xung đột hoặc đánh chiếm một đảo, một quần đảo nhằm quản lý thống trị một vùng nước lớn hoặc thực hiện mưu đồ lãnh đạo, kiểm soát khu vực đòi hỏi phải có thời gian chuẩn bị lâu dài tất cả các lĩnh vực: chính trị đối nội và đối ngoại, binh lực và trang bị kỹ thuật, nghiên cứu kỹ và sâu vùng biển, các mục tiêu cần đánh chiếm.
Tương tự như các cuộc xung đột biên giới hoặc tranh chấp chủ quyền, gây chiến đánh chiếm hải đảo, quần đảo có những đặc điểm kỹ chiến thuật tương tự như tấn công vùng biên giới, nhưng cũng có những đặc điểm đặc thù riêng. Nếu không xét đến các khía cạnh chính trị, đánh chiếm các đảo, quần đảo có những đặc điểm sau:
Đối với phe gây xung đột vũ trang
- Lợi thế:
1- Các đảo, quần đảo quan trọng thường có vị trí địa lý rất xa đất liền, từ vài chục km đến hàng trăm km biển, dễ bị bao vây cô lập. Diện tích bề mặt thông thường không lớn, do đó khả năng tấn công hỏa lực bao phủ toàn bộ mục tiêu của một cụm hải quân công kích chủ lực khá dễ dàng. Hầu như tất cả các mục tiêu đều có thể bị tiến công trong loạt đạn đầu tiên.
2- Lực lượng phòng ngự thường có binh lực và vũ khí trang bị, phương tiện hỏa lực và phương tiện chiến đấu tiến công hạn chế, quân số không đông, khả năng yểm trợ hỏa lực của pháo binh, tên lửa tầm gần không có, do đó dễ dàng chế áp hỏa lực đối phương hoặc tiêu diệt hoàn toàn các trận địa phòng ngự để đổ bộ lên đảo.
3- Lực lượng tấn công thường có vũ khí, trang thiết bị, phương tiện tác chiến hiện đại hoặc siêu hiện đại, quân số đông, kỹ năng tác chiến tốt. Được hỗ trợ các phương tiện thông tin, trinh sát rất hiện đại. Được chi viện bằng hỏa lực rất mạnh, đa chiều, đa hướng.
4- Trong điều kiện đảo có diện tích nhỏ, để giải quyết nhanh dứt điểm, đối phương có thể liều lĩnh sử dụng vũ khí hóa học mau tan nhằm nhanh chóng đánh chiếm đảo, thu dọn chiến trường nhanh, xóa dấu vết.
5- Có thể sử dụng nhiều phương thức tấn công, từ mật tập bằng các phương tiện cơ động ngầm ngoài khơi (từ các tầu ngụy trang dân sự) hoặc tầu ngầm nguyên tử. Hoặc cường tập từ các cụm hải quân chủ lực công kích (tàu sân bay, tàu đổ bộ đường biển, khu trục hạm, tàu hộ vệ tên lửa ..bằng các phương tiện đổ bộ thông thường của lính thủy đánh bộ.
- Nhược điểm:
1- Mục tiêu thông thường nằm trên một khu vực biển lớn, là chướng ngại vật tự nhiên rất phức tạp, đòi hỏi phải trinh sát, nghiên cứu địa hình đáy biển đến bờ biển đảo rất kỹ, nắm chắc được mọi điều kiện khí tượng, thủy văn, môi trường, thời tiết đồng thời những đặc điểm đặc thù của đảo. Kỹ thuật trinh sát địa hình đòi hỏi công nghệ cao, tỷ mỉ và do đó yêu cầu thời gian dài.
2- Khu vực biển ven đảo vừa là chướng ngại vật khó khăn phải vượt qua, vừa là khu vực thuận tiện cho lực lượng phòng ngự xây dựng các trận địa vật cản chống tấn công đổ bộ đường không – biển dày đặc, phức tạp và khó phá gỡ. Tổn thất lớn nhất thường ở khu vực hàng rào, vật cản chống đổ bộ và chống ngầm.
3- Trong mọi trường hợp tác chiến đổ bộ, các lực lượng tấn công khi bị phát hiện sớm, cũng rất dễ dàng biến thành mục tiêu công kích của các lực lượng không quân – hải quân đối phương và phải chịu những tổn thất to lớn, đồng thời chắn chắn trận đổ bộ lần thứ II sẽ không thể diễn ra trong thời gian ngắn tiếp theo.
4- Trận đánh phải dứt điểm trong khoảng thời gian ngắn. Do đó yêu cầu tác chiến phải rất cao và đòi hỏi trình độ kỹ chiến thuật rất cao, quân số và phương tiện chiến tranh phải vượt gấp nhiều lần sức chịu đựng và tiềm năng hỏa lực phòng thủ.
Đối với lực lượng phòng ngự đảo
Nguy cơ:
1- Trận đánh sẽ diễn ra bất ngờ cả về không gian tác chiến và thời gian tác chiến, thường sẽ diễn ra vào thời điểm bất ngờ nhất (cuối giờ chiều, đầu giờ sáng, ban đêm, thời tiết xấu như mưa bão, sương mù hoặc những đặc điểm khí hậu thời tiết bất lợi nhất).
2- Phương thức tác chiến bất ngờ. Với mục đích dứt điểm nhanh gọn, trên địa bàn xa đất liền và không gian rộng lớn, khó kiểm soát, đối phương sẽ không từ bất cứ thủ đoạn nào nhằm đánh chiếm một mục tiêu không lớn. Các phương thức tác chiến có thể là: Bí mật đột nhập đánh chiếm bằng lực lượng đặc nhiệm đổ bộ đường biển (ngầm), đổ bộ đường không bí mật (nhảy dù) kết hợp với đổ bộ đường; cường tập bằng hỏa lực pháo binh tên lửa, hỏa lực của máy bay cường kích, máy bay trực thăng chiến đấu có sức hủy diệt lớn, cùng một lúc bao trùm lên tất cả các trận địa phòng ngự và tuyến hành lang đổ bộ trong một khoảng thời gian đủ lớn (từ 10 – 30 phút) đồng thời với hỏa lực bộ binh, thiết giáp đổ bộ lên đảo.
Kết hợp cả mật tập và cường tập, lực lượng biệt kích đối phương sẽ bí mật mở hành lang đổ bộ, đánh chiếm khu vực bãi đổ bộ, xây dựng bàn đạp đổ quân, phá hủy các trận địa, các mục tiêu quan trọng, tiếp theo là hỏa lực có độ chính xác cao phá hủy các mục tiêu quan trọng và cuối cùng là lực lượng lính thủy đánh bộ đổ bộ lên đánh chiếm đảo.
3- Hỏa lực không giới hạn: Trong trận đánh hải đảo, do khoảng cách xa với đất liền, đối phương sẽ sử dụng triệt để tất cả các loại vũ khí có sức công phá mạnh nhất cũng như có những tính năng kỹ chiến thuật phi nhân đạo nhất, bảo gồm cả bom, đạn pháo binh, bi, mảnh, đầu đạn nhiệt áp, bom cháy napal, photpho, bom xuyên phá công trình phòng ngự khối lượng lớn.v..v…tấn công dồn dập từ nhiều chiều, nhiều hướng, từ trên không, trên biển và dưới biển với các loại vũ khí có điều khiển và vũ khí phi điều khiển, hỏa lực bắn thẳng và hỏa lực cầu vồng.
4- Không có hậu phương chiến trường: Trong chiến đấu phòng ngự đảo, đối phương sẽ bao vây phong tỏa trên biển và trên không. Do đó lực lượng phòng ngự sẽ phải chiến đấu độc lập, không có khả năng được chi viện binh lực hoặc hỏa lực và phải bảo vệ được đảo trong một thời gian nhất định trước khi được tăng viện.
Ưu thế:
1- Hiểu biết kỹ và sâu sắc hình thái địa hình, thủy văn môi trường, khí tượng. Có khả năng xác định được khu vực thuận lợi cho đổ bộ và khu vực không thuận lợi nên có sơ đồ, kế hoạch và phương thức tác chiến trong mọi điều kiện tình huống có thể xảy ra.
2- Trận địa phòng ngự biển đảo được xây dựng dài ngày, có chiều rộng và có chiều sâu, các trận địa hàng rào, vật cản, trận địa thủy – ngư lôi, các hỏa điểm, các công trình công sự, hầm ngầm và kho tàng quân sự được xây dựng vững chắc, có khả năng phòng ngự dài ngày.
3- Có điều kiện, khả năng xây dựng hệ thống yểm trợ hỏa lực tầm xa, hệ thống thông tin liên lạc đa chiều, hệ thống trinh sát tầm xa và cảnh báo sớm trên không trung, trên biển và dưới biển và hệ thống chi viện hỏa lực trong các tình huống với lực lượng Không quân Hải quân và Hải quân.
Lực lượng không quân có vai trò quan trọng trong việc chi viện phòng thủ đảo.
4- Cuộc chiến đấu quyết liệt, không có khả năng lui quân hoặc gọi tăng cường lực lượng dự bị. Do đó, tính quyết tâm tuyệt đối cộng với trận địa phòng ngự vững vàng và sự chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu chặt chẽ, đầy đủ trong mọi tình huống, sẽ là sức mạnh không dễ vượt qua.
Từ những phân tích và thống kê đã nêu, có thể nhận thấy: Xây dựng trận địa phòng ngự biển đảo phải được tiến hành trong điều kiện thời bình, tính toán đến phương án tác chiến ở cường độ cao nhất nhằm đập tan ý đồ tấn công, xâm lược đảo ngay từ khi trong giai đoạn còn tranh chấp chủ quyền ở mức độ đấu tranh chính trị.
Hệ thống phòng ngự tầm xa
Hệ thống phòng ngự đảo, quần đảo phải được nằm trong hệ thống phòng ngự chung trên biển, bao gồm cả hệ thống theo dõi và chống ngầm, quản lý, kiểm soát và theo dõi các mục tiêu tàu nổi, hệ thống phòng không và phòng thủ tên lửa biển đảo.
Hệ thống phòng ngự chống ngầm
- Hệ thống đồng bộ hóa các phương tiện tình báo, trinh sát, theo dõi và quản lý các mục tiêu – tàu ngầm, tuyến đường cơ động thưởng xuyên và các khu vực có nguy cơ trở thành bàn đạp tác chiến của tầu ngầm ( khu vực tập kết hỏa lực – tên lửa; khu vực có khả năng đổ bộ lực lượng đặc nhiệm – người nhái.
- Hệ thống các trận địa và phương tiện chống ngầm: Các trận địa ngư – thủy lôi, các trận địa hàng rào, vật cản chống ngầm, các chiến hạm chống ngầm và các tổ hợp ngư lôi, tên lửa chống ngầm được bố trí trên đảo, quần đảo.
Hệ thống phòng không và phòng thủ tên lửa
Trong cuộc tấn công đánh chiếm hải đảo, Đối phương bắt buộc phải sử dụng lực lượng không quân hải quân (tiêm kích đa nhiệm, cường kích mang tên lửa và bom có điều khiển. Kết hợp với lực lượng không quân hải quân trên tàu sân bay hoặc tàu đổ bộ như máy bay cường kích tầm gần hoặc trực thăng yểm trợ hỏa lực và đổ bộ đường không. Đối phương sẽ sử dụng tên lửa đạn đạo, hành trình kết hợp với bom có điều khiển, sau đó là bom và rockets thông thường tấn công kết hợp với pháo hạm.
Để ngăn chặn và đánh trả các đòn tấn công của đối phương, hệ thống phòng không phải được xây dựng ngay trong thời bình và là một yếu tố cấu thành của hệ thống phóng không quốc gia trên biển, trong đó cần chú trọng xây dựng hệ thống phỏng không tầm xa và phòng thủ tên lửa tầm gần (tên lửa hành trình).
Hệ thống phòng không bảo vệ hải đảo sẽ có 3 lớp phòng không: Phòng không chống máy bay cường kích và tên lửa tầm xa (vũ khí trang bị có thể là Su 30MK; S-300), hệ thống phòng không tầm trung (máy bay tiêm kích, tên lửa phòng không chiến hạm) và hệ thống phòng không tầm gần – trực tiếp trên đảo (tên lửa phòng không tầm gần, tên lửa vác vai, pháo và súng phòng không các cỡ nòng.
Các lớp phòng không phải đặt trong hệ thống phòng không thống nhất, đồng bộ hóa dưới một trung tâm chỉ huy phòng không Biển – Đảo, liên kết chặt chẽ với hệ thống tình báo – trinh sát và cảnh báo sớm.
Hệ thống phòng ngự đổ bộ đường biển
Hệ thống phòng ngự chống đổ bộ đường biển được cấu thành từ hệ thống trận địa ngư – thủy lôi, hàng rào vật cản dưới mặt nước biển và hệ thống phòng ngự trên bờ biển, hệ thống chống địch đổ bộ đường không.
Do lực lượng phòng ngự trên đảo, quần đảo tương đối giới hạn về quân số, vũ khí trang bị và phương tiện tác chiến có hỏa lực mạnh (các đơn vị xe tăng, xe thiết giáp, pháo binh – tên lửa cấp chiến dịch…). Điều kiện tiên quyết để có thể phòng ngự tốt trước một lực lương công kích mạnh hơn gấp nhiều lần là hệ thống phòng ngự chủ động bằng tất cả những phương tiện thông thường, hiện đại và siêu hiện đại.
Hệ thống phòng ngự đổ bộ trên đảo
1- Hệ thống trinh sát, cảnh giới và cảnh báo sớm, bao gồm các đài radar các tầm, các hệ thống quan sát thường xuyên ngày đêm như hệ thống camera hồng ngoại, hệ thống quan sát quang ảnh nhiệt, hệ thống sonar và các trang thiết bị cảm biến, dò tìm và theo dõi mục tiêu dưới và trên mặt nước biển.
2- Hệ thống trận địa thủy lôi, thủy ngư lôi các độ sâu và các phương thức kích nổ khác nhau. Các trận địa hàng rào, vật cản ngầm dưới nước, hệ thống mìn và hàng rào vật cản chống đổ bộ trên bờ biển, nơi có khả năng địch đổ bộ bằng các phương tiện đổ bộ thông thường.
Những người lính đảo Trường Sa luôn luyện tập, chắc tay súng bảo vệ chủ quyền tổ quốc.
3- Trận địa phòng ngự trên các hướng khu vực chiến hạm, tàu đổ bộ cơ động đổ bộ, hành lang đổ bộ trên biển (hành lang từ tàu đổ bộ vào đến mép bờ biển), vùng bãi biển, nơi địch có thể đổ bộ bằng các phương tiện đổ bộ (bàn đạp đổ bộ), các khu vực địch có thể đổ bộ bằng đường không.
Xây dựng một thế trận phòng ngự vững chắc và có chiều sâu, được chuẩn bị kỹ càng. Đồng thời với việc diễn tập thường xuyên các tình huống chiến đấu nhằm duy trì khả năng sẵn sàng chiến đấu, tăng cường áp dụng khoa học kỹ thuật quân sự hiện đại trong trinh sát, quản lý vùng nước, vùng trời, tổ chức chỉ huy điều hành tác chiến. Đó là điều kiện tiên quyết để bẻ gãy mọi âm mưu gây xung đột của các thế lực “diều hâu” nước ngoài.
Trận địa phòng ngự biển đảo thông thường có cấu trúc tương tự như các trận địa phòng ngự bờ biển khác, bao gồm trận địa của các thê đội phòng ngự, các tuyến phòng ngự …
Hệ thống phòng ngự đảo được xây dựng trên các khu vực đối phương có khả năng đổ bộ lực lượng lính thủy đánh bộ và được phòng ngự, theo nguyên tắc chiến thuật chung, bởi các đơn vị bộ binh. Khi xây dựng trận địa phòng ngự, cần tính toán đến lực lượng thực tế thường trực chiến đấu trên đảo, điều kiện địa hình và ý nghĩa thực tế của khu vực xây dựng trận địa phòng ngự.
Trận địa phòng ngự các mục tiêu quan trọng như (hải cảng, căn cứ hải quân, sân bay, tuyến đường giao thông (thông thường hay chạy vòng quanh vành đai địa hình của đảo) và các giao lộ được tổ chức theo nguyên tắc của các trận địa phòng ngự, thành các tuyến phòng ngự và các thê đội phòng ngự ( tuyến tiền duyên, tuyến phòng ngự tiếp theo…) trận địa phòng ngự của thê đội 1, trận địa phòng ngự thê đội 2, khu vực thê đội dự bị….
Tuyến tiền duyên, trận địa phòng ngự thê đội 1 thông thường được thiết kế, xây dựng như một trận địa phòng ngự trên chiến trường với tất cả các thành phần cấu thành trận địa, trong một số trường hợp được xây dựng kiên cố, vững chắc, được duy trì khả năng sẵn sàng chiến đấu thường xuyên bởi các đơn vị thường trực. Tuyến phòng ngự thứ 2, cấu thành từ các trận địa phòng ngự thê đội 1, thê đội 2 hoặc thê đội dự bị thông thường được xây dựng thành các công trình phòng ngự rất vững chắc, kiên cố, bao gồm cả hệ thống hầm hào giao thông, hầm ngầm, sở chỉ huy, kho tàng, khu nguồn năng lượng v.v.. bằng bê tông cốt thép, các tấm thép chống bom và tên lửa. Thông thường phía trên và phía trong sẽ là các công trình dân sự, huyện thị hoặc khu dân cư hay khu công nghiệp biển.
Phòng thủ đảo được tổ chức theo phương án chủ động và cơ động. Các khu vực quan trọng “đối tượng” của đảo được bảo vệ bằng lực lượng tại chỗ, các lực lượng chủ lực được biên chế thành những lực lượng cơ động, sẵn sàng tổ chức những đòn phản kích quyết liệt tại những điểm sơ hở của đối phương, phản kích từ sâu trong vị trí phòng thủ nhằm tiêu diệt lực lượng đổ bộ tại một khu vực đổ bộ nhất định.
Có nhiều đảo có diện tích tương đối nhỏ, tuyến phòng thủ được triển khai gần như bám sát mép biển, và lực lượng phòng ngự cũng không đông. Do đó các tuyến phòng ngự chiều sâu và lực lượng dự bị không được tổ chức, do đó sẽ tách thành các phân đội hỏa lực mạnh cơ động, sẵn sàng yểm trợ hỏa lực những nơi có nguy cơ cao nhất, còn lại các lực lượng tập trung phòng ngự tại những khu vực quan trọng.
Trong đó, lực lượng phòng ngự chủ chốt thường nằm sâu ở thê đội hai, trên các trận địa phòng ngự vững chắc. Đồng thời, khi xây dựng trận địa phòng ngự địch đổ bộ đường biển, cần xây dựng các khu vực phòng ngự địch đổ bộ đường không. Do đó, ngoài việc xây dựng các tuyến phòng thủ tại những điểm, những khu vực địch có thể đổ bộ, cần tổ chức các trận địa phòng không, lực lượng chống đổ bộ đường không cơ động với vũ khí phòng không đi cùng.
Sơ đồ hệ thống phòng ngự biển đảo, khu vực đổ bộ.
Trong phòng ngự hải đảo, vũ khí trang thiết bị quan trọng nhất để đảm bảo thành công trong chiến đấu là: Hệ thống thủy ngư lôi chống tàu, mìn chống xe thiết giáp đổ bộ và mìn chống bộ binh dưới nước và trên cạn, hàng rào vật cản chống đổ bộ.
Hệ thống hàng rào, vật cản, trận địa mìn phòng ngự.
Hệ thống hàng rào vật cản chống tăng có thể được xây dựng nhân tạo bao gồm: Mìn chống tăng, cọc chống tăng con nhím, hàng rào cọc, hào chống tăng v.v…. Các hàng rào vật cản có thể cố định hoặc tạm thời, được bố trí sao cho không ảnh hưởng đến hoạt động thường xuyên của đảo, nhưng có thể nhanh chóng ngăn chặn, phong tỏa mọi tuyến đường đổ bộ lên đảo. Hệ thống hàng rào vật cản chống lực lượng bộ binh đổ bộ (bao gồm các loại mìn, các trận địa mìn và các loại vật cản khó nhận biết.
Hệ thống hàng rào, vật cản ngăn chặn các phương tiện đổ bộ - bao gồm cả các phương tiện lưỡng cư (xuồng máy, xe lội nước đổ bộ…) là những khí tài, vũ khí đặt ngầm dưới mặt nước như thủy lôi, mìn, bộc phá mảnh, hàng rào cột, lưới và các loại vật cản khác. Hệ thống hàng rào vật cản chống đổ bộ đường không có thể là các trận địa cột chống đổ bộ trực thăng bằng bê tông, thép, các loại mìn chống trực thăng và chống đổ bộ, trong giai đoạn hiện nay, thường ưu tiên các loại mìn chống trực thăng và chống đổ bộ nhờ giá thành và tính tiện dụng của nó.
Sơ đồ vật cản của quân đội Đức chống đổ bộ khi thủy triều xuống.
Hệ thống phòng ngự dưới nước thường được sử dụng là các loại thủy lôi neo, bộc phá mảnh và mìn đáy, các loại vũ khí này thông thường được chế tạo theo dạng containers kín, được điều khiển từ xa. Các khí tài gây nổ được bố trí thông thường ở độ sâu nổ là 2,5m. Song song cùng với các loại khí tài gây nổ là các vật cản như chùm thanh sắt hàn con nhím chống đổ bộ, cột bê tông cốt thép chống đổ bộ. Các cụm vật cản này thường bố tri ở độ sâu đến 3 m khi triều lên, xen lẫn với khí tài gây nổ và thường có chiều ngang đến 10 m.
Ngư lôi neo đáy chống tàu.
Mìn chống đổ bộ đáy biển.
Hệ thống phòng ngự chống đổ bộ trên bãi biển bao gồm các trận địa hỗn hơp mìn chống tăng, chống bộ binh và hàng rào vật cản – hàng rào dây thép gai. Trên bãi biển từ độ sâu 1m lên trên bờ, đặc biệt những nơi có địa hình sỏi đá, phức tạp thường hay đặt các vật cản khó nhận biết (lưới thép gai bùng nhùng xen lẫn với các loại bẫy thủ công tinh vi…).
Để tạo điều kiện thuận lợi cho cơ động và phòng ngự, giữa các trận địa vật cản khó nhận biệt cần chuẩn bị các tuyến đường cơ động thuận lợi, cũng như các công sự chắc chắn được chuẩn bị sẵn sàng và phải được ngụy trang kín đáo..
Hệ thống trận địa hàng rào, vật cản và mìn được bảo vệ và yểm trợ bằng hỏa lực pháo binh, và các phân đội bộ binh cùng với hỏa khí đi cùng, trong điều kiện giới hạn về tầm nhìn có thể được canh gác bởi những phân đội được giao nhiêm vụ canh gác thường xuyên.
Hệ thống chống lực lượng đổ bộ trong nước ở điều kiện thời bình thường có thể không được đặt sẵn, do điều kiện ngập mặn của nước và tình hình thủy văn có thể phá hủy, làm hỏng hoặc gây nguy hiểm cho các hoạt động thường xuyên. Đồng thời việc xây dựng, bảo dưỡng, bảo trì các công trình này đòi hỏi nhiều sức người và thời gian. Thông thường, công nghiệp quốc phòng sẽ chế tạo các loại vũ khí chống đổ bộ (các thùng mìn thông minh, các hệ thống vật cản bùng nhùng ….) được đóng gói trong các thùng containers kín, chống được sự tác động của nước biển và đặt ngầm, neo chặt dưới đáy biển, được quản lý bằng các sensors cảm biến thông báo tình trạng kỹ thuật.
Phân đội hỏa lực phòng thủ đảo ở Trường Sa.
Trong tình huống chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu khẩn cấp, các bộ khí tài này sẽ được khởi động trong thời gian ngắn. Đồng thời các bộ trang bị hàng rào vật cản chống đổ bộ thông thường cũng được chuẩn bị sẵn sàng và có chế độ bảo quản, trong điều kiện căng thẳng, có nguy cơ xung đột hoặc khả năng xâm lược, các khí tài trên sẽ được đưa vào sử dụng. Riêng hệ thống chống đổ bộ đường không và đường biển, các hệ thống hàng rào vật cản và trận địa mìn trên bờ trong mọi điều kiện thời bình hay thời chiến đều phải lắp đặt sẵn sàng..
Trong điều kiện phát triển của khoa học công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ điện tử, truyền thông. Các loại khí tài, vũ khí gây nổ sẽ được lắp đặt các bộ phận kích nổ thông minh, trong điều kiện thời bình có thể sẽ là các bộ cảm biển duy trì năng lượng ở mức độ thấp, nhằm phát hiện đối tượng xâm nhập và quản lý trận địa. Khi chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu sẽ được kích hoạt, trở thành các trận địa mìn thông minh, có thể độc lập bảo vệ một khu vực lớn trên đảo hoặc toàn bộ đảo nhỏ.
Trận địa phòng ngự biển đảo thông thường có cấu trúc tương tự như các trận địa phòng ngự bờ biển khác, bao gồm trận địa của các thê đội phòng ngự, trận địa thê đội 1, trận địa thê đội 2. Tuyến phòng ngự thứ nhất, tuyến phòng ngự thứ 3… Do điều kiện thực tế xa với đất liền, khả năng yểm trợ hỏa lực hoặc lực lượng dự bị từ hậu phương không có. Do đó, các tuyến phòng ngự và các trận địa phòng ngự phải được xây dựng kiên cố vững chắc, có khả năng chịu đựng được những đòn tấn công với hỏa lực tập trung và mạnh hơn gấp nhiều lần.
Lính đảo Trường Sa tập luyện, sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống.
Hào giao thông, các hỏa điểm và các hầm trú ẩn phải đảm bảo chịu được hỏa lực của pháo hạm, tên lửa chống tăng – phá bê tông và vũ khí nhiệt áp. Các hỏa điểm phải đảm bảo sử dụng các loại vũ khí có uy lực lớn, (súng máy từ 7,62mm đến 20 mm, súng phóng lựu ( B-41 RPG -7, súng phóng lựu nhiệt áp RPO, các loại súng phóng lựu như B-10, RPG-9…). Kinh nghiệm chiến tranh bảo vệ biển đảo cho thấy, những loại khí tài đã lỗi thời như xe tăng T-34, SU–80, T-54 A,B khi được đưa vào phòng ngự, xe được hạ xuống hầm và có những thiết kế đặc thù cho phòng ngự, vẫn là các loại vũ khí nguy hiểm cho lực lượng đối phương.
Do yếu tố đặc thù của phòng ngự hải đảo, địch có thể sử dụng các loại vũ khí có tính hủy diệt lớn hoặc sát thương cao. Sẽ không loại trừ khả năng đối phương sử dụng bom, đạn hóa học, bom nhiệt áp có sức công phá lớn, bom bi, bom chùm hoặc đạn pháo đinh. Do đó, hệ thống hầm hào phòng ngự và trang bị quân nhân phải được đảm bảo chống được hoặc giảm thiểu tối đa tác nhân của loại vũ khí này. Đồng thời, các lực lượng chủ yếu, các trung tâm chỉ huy, điều hành tác chiến phải được đưa vào sâu trong đảo, trong các công trình vững chắc và có khả năng chống được vũ khí hóa học hoặc nhiệt áp, bom – tên lửa khoan xuyên có sức công phá lớn nhằm bảo toàn lực lượng.
Sơ đồ phản kích đánh địch đổ bộ đường biển.
Sơ đồ phân bổ lực lượng, sẵn sàng chiếm lĩnh khu vực phòng ngự trong tình huống địch đổ bộ có sử dụng vũ khí hủy diệt lớn.
Theo góc nhìn của các chuyên gia quân sự nước ngoài trên phương diện phòng thủ hải đảo, các đòn phản kích phải được giáng trả từ trong chiều sâu phòng ngự, lực lượng dự bị để phản kích phải chiếm tỷ lệ 7:11. Lực lượng phòng ngự tại chỗ chiếm tỷ lệ quân số là 2:11.
Các lực lượng cơ động mạnh ( thường là các đơn vị xe tăng – bộ binh cơ giới), được bố trí ở những hướng chủ yếu, có khả năng đổ bộ cao nhất. Lực lượng dự bị của Lữ đoàn (trung đoàn) được bố trí ở những hướng chủ yếu trên khoảng cách 10 – 15 km so với đường giao thông hào của tuyến 1, thê đội một. Tuyến triển khai đội hình chiến đấu thông thường được xác định là cách từ 4-6 km so với mép nước biển, các đòn phản kích được triển khai trong khoảng thời gian từ 30 -40 phút sau khi đối phương đổ bộ.
Trong khoảng thời gian đã nêu, lực lượng đổ bộ của đối phương, với tốc độ tấn công là 3 – 4 km/h, sẽ thọc sâu được khoảng từ 1,5 đến 3 km. Điều này cho phép lực lượng phòng ngự sử dụng nguyên tắc tác chiến của lực lượng cơ động, dồn địch vào những vùng lõm hỏa lực, vô hiệu hóa lực lượng đổ bộ bằng hỏa lực chính diện và bên sườn, đối phương khó sử dụng pháo hạm và không quân để yểm trợ tầm xa, sau đó tấn công phản kích tiêu diệt địch hoặc hất địch xuống biển.
Trong tình huống địa hình đảo nhỏ hẹp, các lực lượng cơ động mạnh sẽ nằm ở tuyến thứ hai, thê đội 1 của hệ thống phòng ngự, được phân tán và bố trí trong các hầm, công sự được xây dựng vững chắc và ngụy trang tốt. Khi tiến hành các hoạt động phản kích, các lực lượng (xe tăng, thiết giáp, bộ binh cơ giới cơ động mạnh) sẽ đột ngột từ nơi trú ẩn phản kích địch theo tình huống.
Địch nhiều khả năng sẽ dùng tàu đổ bộ đệm khí cỡ lớn tấn công chiếm đảo sau khi đã dùng hỏa lực bắn phá cấp tập hòng đè bẹp lực lượng phòng thủ.
Trong điều kiện tác chiến ở đảo lớn, địa hình cho phép thì các tiểu đoàn pháo binh được bố trí trận địa ở khoảng cách từ 4 – 8 km so với mép nước, pháo binh bờ biển ở khoảng cách từ 1 -2 km so với mép nước, các hệ thống pháo phản lực, tên lửa chiến trường ở khoảng cách từ 6 -12 km so với mép nước. Ở những đảo có diện tích nhỏ, các hệ thống pháo binh sẽ được bố trí trong các công sự vững chắc, tùy theo yêu cầu nhiệm vụ thực tế để bố trí trận địa. Thông thường tránh đưa các phương tiện hỏa lực lớn ra sát mép nước hoặc ở những khoảng cách không an toàn, dễ bị đối phương sử dụng hỏa lực của máy bay, tên lửa hoặc pháo binh đối phương công kích gây thiệt hại lớn.
Các trận địa pháo binh – tên lửa phải được xây dựng kiên cố, có khả năng bảo vệ cao và tối ưu hóa khả năng phát huy hỏa lực gần mép nước, nơi sẽ tập trung nhiều binh lực và phương tiện, khí tài đổ bộ của đối phương. Pháo binh - tên lửa chiến trường được bố trí trận địa hỏa lực nằm trong khu vực phòng ngự phía sau trận địa của tuyến 2. Pháo binh – hỏa khí đi cùng của tiểu đoàn bộ binh phòng ngự được bố trí trong trận địa phòng ngự của tiểu đoàn, các trang bị - hỏa khí đi cùng như (tổ hợp tên lửa chống tăng, súng cối các cỡ nòng, súng phóng lựu) được bố trí trong đội hình phòng ngự của đại đội, chính diện hoặc bên sườn.
Để quan sát, kiểm soát không gian mặt biển, các đảo hoặc quần đảo tổ chức các trạm quan sát đa khí tài, bao gồm: khí tài quan trắc thông thường (ống nhòm, camera kỹ thuật số..) khí tài quan sát ban đêm (ống nhòm hồng ngoại, camera hồng ngoại…), các đài radar trinh sát mặt biển. Với các đài radar hiện nay, có khả năng quan sát và phát hiện các hạm tàu trong khoảng cách đến 20 km. Đồng thời, trong điều kiện hiện đại hóa lực lượng phòng thủ bờ biển, hải đảo, còn có thể trang bị các đài sonar chống ngầm, nhằm mục đích chống đổ bộ bằng tàu ngầm hoặc các phương tiện cơ động ngầm khác.
Các xuồng đổ bộ tiếp cận bờ biển.
Xe thiết giáp vượt biển đổ bộ.
Sở chỉ huy tác chiến cấp tiểu đoàn được bố trí phía ngoài khu vực phòng thủ chính, bên sườn trái hoặc phải đội hình theo hướng đổ bộ chính của lực lượng đối phương. Các trạm quan sát khác cùng với sở chỉ huy đại đội và trung đội – tại các vị trí thuận lợi của khu vực phòng ngự đơn vị.
Các chuyên gia quân sự phương Tây khẳng định: Để bảo vệ đảo và quần đảo hiệu quả. Các hoạt động tác chiến chống đổ bộ phải được tiến hành ngay từ khi đối phương chuẩn bị cho hoạt động vận chuyển cơ động vào khu vực đổ bộ - bàn đạp tấn công. Có nghĩa là khi đối phương bắt đầu tập trung lực lượng và tổ chức đội hình các phương tiện đổ bộ. Để tiêu diệt lực lượng đổ bộ địch ở khu vực tập kết và hành lang vượt biển cập bãi đổ bộ, cần tấn công bằng các phương tiện chiến đầu đường không (không quân, không quân hải quân) và các chiến hạm tên lửa, tàu ngầm.
Các đơn vị phòng ngự trên đảo bắt đầu trận đánh với lực lượng đổ bộ, khi các phương tiện đổ bộ tiếp cận khu vực hỏa lực của pháo binh bờ biển. Hỏa lực pháo binh bờ biển bắn tập trung ngăn chặn địch trong vùng hỏa lực. Pháo các loại, các cỡ nòng của xe tăng, tên lửa, pháo binh, súng tự động tầm xa hỏa lực bắn thẳng xạ kích vào các phương tiện cơ động chở bộ binh mặt nước như các xe bọc thép, các xe tăng lội nước, các xuồng cao tốc, một phần hỏa lực pháo binh được sử dụng theo mệnh lệnh cấp trên xạ kích trực tiếp vào các tàu khinh hạm, các xuồng phóng tên lửa các các pháo hạm tiếp cận gần để yểm trợ hỏa lực. Hỏa lực bắn thẳng của bộ binh bắt đầu khi các phương tiện vận tải đối phương tiếp cận khu vực 400 m so với mép chiến hào, tuyến phòng ngự thứ I và tăng đến mức độ cực đại khi đối phương bắt đầu tiếp cận bãi đổ bộ và đổ quân...
Khu vực hỏa lực pháo binh trên bãi đổ bộ.
Để đổ bộ thành công, đối phương sẽ sử dụng hỏa lực rất mạnh ở tiền duyên nhằm dọn bãi đổ bộ, phá hủy hàng rào, vật cản và các trận địa mìn, đồng thời trong điều kiện thuận lợi về khí hậu và thời tiết, có thể sử dụng cả vũ khí hủy diệt như hóa học, nhiệt áp. Theo đánh giá của các chuyên gia quân sự phương Tây, lực lượng phản kích từ tuyến phòng ngự thứ 2 hoặc thê đội dự bị khi phản kích sẽ cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng đồng thời sẵn sàng cho chiến đấu trong hành tiến trong môi trường nhiễm độc.
Trong điều kiện tác chiến hiện đại, có thể sử dụng các phương tiện bay như máy bay trực thăng mang súng máy hạng nặng hoặc rockets làm nhiệm vụ yểm trợ hỏa lực. Trong trường hợp lực lượng không quân hải quân của đối phương mạnh, lực lượng phòng ngự không có các phương tiện bay, phải sử dụng hỏa lực pháo phản lực như BM-21, H-12 bắn dồn dập với mục đích mở đường tác chiến phản kích và giảm bớt nồng độ chất độc. Đồng thời ngăn chặn và chế áp lực lượng đối phương.
Với sự phát triển của các phương tiện mang (tàu ngầm, tàu tàng hình, máy bay tàng hình) đổ bộ đánh chiếm đảo (có diện tích không lớn – hoặc phòng thủ vững chắc) có thể được thực hiện bởi lực lượng đặc nhiệm lính thủy đánh bộ với phương tiện đổ bộ là tàu ngầm nguyên tử, các phương tiện đổ bộ ngầm và xuồng cao tốc. Tính khả thi của phương pháp này phụ thuộc vào lực lượng đồn trú bảo vệ đảo có duy trì được chế độ cảnh giới, sẵn sàng chiến đấu và khả năng phản ứng nhanh hay không.
Đổ bộ bằng phương tiện bơi ngầm dưới mặt nước .
Lực lượng người nhái đổ bộ.
Lực lượng đặc nhiệm đối phương có thể thực hiện toàn bộ nhiệm vụ đánh chiếm đảo, hoặc thực hiện một phần của trận đánh đổ bộ.
Để ngăn chặn khả năng đổ bộ bí mật, ngoài việc duy trì chế độ tuần tra canh gác và quan sát cảnh giới thường xuyên. Trong giai đoạn ngày nay, các nước tiên tiến thường áp dụng bổ sung các phương tiện hiện đại quản lý khu vực phòng thủ. Hàn quốc cũng đã chế tạo một thiết bị robor SGR-1 canh phòng và cảnh giới rất hiệu quả, đây thật sự cũng là một mô hình ứng dụng công nghệ hiện đại phòng ngự đảo. Trong điều kiện đơn giản hơn, cần có một hệ thống camera và cảm biến âm thanh, quang ảnh nhiệt hoặc hồng ngoại được lắp đặt cùng với các hệ thống báo động, hệ thống phòng ngự hàng rào vật cản trên toàn khu vực đường biên mép đảo nhằm nhanh chóng phát hiện mục tiêu tiềm nhập, triển khai lực lượng tiêu diệt.
Trường hợp địch tiến hành đổ bộ ban dêm, khi thời tiết xấu và tầm nhìn kém. Phương pháp tổ chức trận đánh cũng tương tự như tác chiến ban ngày, nhưng đồng thời phải tính đến yêu cầu phải chiếu sáng chiến trường, đặc biệt là hướng đổ bộ, các chủng loại đạn gây cháy, đạn pháo sáng phải được chuẩn bị kỹ càng và có thể khai hỏa chiếu sáng được ngay. Chiếu sáng và gây cháy trên chiến trường – khu vực đổ bộ sẽ làm mất đi ưu thế bí mật bất ngờ, đồng thời vô hiệu hóa các phương tiện nhìn đêm của đối phương, tạo điều kiện thuận lợi cho hỏa lực bắn thẳng xạ kích chính xác hơn.
Lực lượng cơ động từ thê đội dự bị lên phản kích vẫn là đòn đánh chủ lực ngăn chặn đối phương đổ bộ. Nhưng vai trò của lực lượng trinh sát, cảnh giới vô cùng quan trọng, cùng lúc phải quan sát, theo dõi và bảo vệ chắc chắn hai bên sườn trận địa tránh bị đánh vu hồi, tập hậu của lực lượng đặc nhiệm đổ bộ bí mật đường biển hoặc đường không. Đường cơ động phản kích của lực lượng chủ lực phải được đánh dấu rõ ràng bằng ký tín hiệu đặc thù.
Vũ khí, phương tiện phòng ngự hải đảo
Một số loại vũ khí, phương tiện bảo vệ đảo, bao gồm cả các phương tiện hiện đại, và tương đối hiện đại, hoặc đã được nâng cấp.
Robot SRG-1 Khí tài phòng ngự đảo, các mục tiêu quan trọng chống đột kích bí mật đường biển, đường không. Hệ thống này có thể được lắp đặt tại những điểm xung yếu, đồng thời kết nối với các phương tiện trinh sát khác như camera kỹ thuật số, camera hồng ngoại, các thiết bị cảm biến âm thanh nhằm nhanh chóng phát hiện đối tượng thâm nhập. Trong một số trường hợp đặc biệt, robots có thể khai hỏa diệt mục tiêu. .
Súng phóng lựu nhiệt áp RPO là loại vũ khí cá nhân sử dụng 1 lần có sức sát thương, phá hủy rất mạnh. Đắc biệt trong chiến đấu phòng ngự chống đổ bộ. Hai đầu đạn tên lửa nhiệt áp có khả năng phá hủy tất cả các loại phương tiện cơ động đổ bộ, từ xe tăng hạng nhẹ đến xuồng, phà, tàu đổ bộ chạy trên đệm khí đồng thời gây cháy toàn bộ phương tiện. Súng có thể được sử dụng để ngăn chặn các đợt tấn công ồ ạt của lực lượng bộ binh địch chỉ trong một phát bắn và gây tổn thất nặng nề về sinh lực đối phương.
Chống máy bay trực thăng PVM. Hiệu ứng nổ lõm, được lắp đặt bộ phận kích nổ bằng âm thanh, hồng ngoại các tần số , có khả năng phát hiện mục tiêu cách 1 km. Được sử dụng để chống đổ bộ bằng máy bay trực thăng hoặc các phương tiện đổ bộ đường không hạ cánh thẳng đứng. Sử dụng hiệu ứng nổ lõm và mảnh, các loại mìn này được cài đặt thủ công hoặc bằng máy phóng, nhằm tiêu diệt các máy bay bay treo, bay thấp hoặc hạ cánh trong vùng hỏa lực..
Mìn chống đổ bộ đường biển PMD-1M, được đặt dưới mực nước biển khu vực đổ bộ, mìn được kích nổ bằng va chạm hoặc do điều khiển. Sử dụng để chống các loại xe lội nước, xe tăng lội nước, xe bộ binh cơ giới lội nước. Mìn thường được cài đặt trong trường hợp có nguy cơ đổ bộ đường biển bằng các phương tiện cơ động lưỡng cư: xe tăng bơi, xe lội nước, xe thiết giáp lội nước. Có thể lắp đặt cơ chế điều khiển từ xa và tự hủy. .
Mìn Claymore, một loại mìn thông dụng dùng để chống lực lượng bộ binh, kích nổ có điều khiển. Phiên bản nâng cấp ngòi nổ có thể kích nổ từ xa hoặc làm mìn bẫy. Mìn được bố trí trong điều kiện chống bộ binh đổ bộ đường biển và đường không, có uy lực sát thương rất mạnh và độ an toàn sử dụng cao, thuận tiện trong tác chiến phòng ngự biển đảo..
Mìn bươm bướm PFM-1C, được phóng rải bằng các ống phóng mìn cơ động, dùng để chống bộ binh, lực lượng đổ bộ đường biển hoặc đường không, mìn có cơ chế tự hủy từ 1 đến 40h, tùy theo nhiệt độ môi trường, đây là loại vũ khí hữu hiệu để ngăn cản các cuộc tấn công ồ ạt với quân số đông, chiến sĩ phòng thủ có thể bắn một ống mìn và trong diện tích 40 x 40 m2 đối phương không thể vượt qua vùng đất dày đặc bom bươm bướm. Mìn sẽ tự hủy sau một thời gian nhất định.
Trịnh Thái Bằng - TPO
Tags:
Biển Đông
Comments[ 0 ]
Post a Comment