Chiến lược A2/AD của Việt Nam chưa hiệu quả?
Saturday, November 1, 2014
Việt Nam là nước có lợi thế về địa chính trị hết sức quan trọng đối với sự ổn định và thịnh vượng của Đông Á nói riêng và thế giới nói chung, bởi Trung Quốc ngày càng phô diễn cho thế giới thấy những hành động ngang ngược vô đạo, bẻ cong lịch sử, bất chấp luật pháp quốc tế và xâm chiếm lãnh thổ chủ quyền của láng giềng. Do đó tiềm lực và khả năng quốc phòng của Việt Nam luôn được các chuyên gia quân sự và chính trị theo dõi sát sao.
Trên trang Diễn đàn Đông Á (East Asia Forum) mới đây có đăng tải bài viết của Tiến sĩ Ngô Thường Thư là nghiên cứu viên tại Viện Nghiên cứu Chiến lược và Quốc phòng của trường Nghiên cứu Quốc tế S. Rajaratnam (RSIS) thuộc trường đại học công nghệ Nam Dương (Nanyang Technological University - NTU) - Singapore, bài viết đặt ra câu hỏi, mặc dù Việt Nam gần đây đã có những khoản đầu tư quan trọng cho quốc phòng nhằm đối phó với việc môi trường chiến lược của khu vực đang thay đổi, nhưng những động thái quốc phòng trên của Việt Nam có tạo ra sự khác biệt nào trong việc cân đối lại sức mạnh quân với Trung Quốc trên Biển Đông?
Bài viết cho biết, trong mười năm qua, Việt Nam đã đặc biệt chú trọng đầu tư về khả năng phòng thủ trên không và dưới biển. Việt Nam đã và đang mua sắm và trang bị các máy bay chiến đấu đa chức năng Su-30MK2 từ Nga, cùng với tàu ngầm Kilo Đề án 636, cũng như một số loại tàu chiến mặt nước cùng các loại hệ thống tên lửa. Những đơn hàng vũ khí trong thời gian gần đây đã tiết lộ nên một khuynh hướng quốc phòng mà Việt Nam muốn hướng tới đó là nâng cao khả năng chiến lược Phong tỏa/ Chống tiếp cận khu vực (A2/AD), nhằm ngăn chặn khả năng xâm nhập của đối phương đối với vùng lãnh hải của Việt Nam.
Tiến sĩ Ngô trong bài viết của mình đã đưa ra một số lý do và cho rằng, khi đối mặt với sức mạnh quân sự vượt trội của Bắc Kinh, thì những trang bị mới của Việt Nam cũng không thể hoàn thiện được chiến lược A2/AD đang theo đuổi và có thể không đạt được mục tiêu như đã dự định.
Thứ nhất, là khả năng giám sát, khả năng giám sát là chiếc chìa khóa cho chiến lược A2/AD, nhưng nền tảng hiện nay cho khả năng giám sát hàng hải của Việt Nam lại khá là mong manh. Hiện tại Việt Nam đã giới thiệu ba loại máy bay giám sát hàng hải như, DHC-6-400, M-28P và C-212, những máy bay này được trang bị cho lực lượng không quân và lực lượng bảo vệ bờ biển. Tuy nhiên, các loại máy bay cánh quạt này lại có tốc độ chậm, rất dễ để trở thành con mồi cho các máy bay chiến đấu Trung Quốc, hay các loại tên lửa ngoài tầm nhìn hoặc các loại tên lửa phòng không trên tàu chiến. Mặc dù hiện nay Việt Nam đã đưa vào trạng bị và khai thác một vệ tinh viễn thám sử dụng công nghệ của Pháp, nhưng chức năng của nó cho các nhiệm vụ của chiến lược A2/AD có thể lại bị hạn chế. Vệ tinh viễn thám có chức năng là để quan sát các thông tin về địa lý và địa chất chứ không thể cung cấp hình ảnh sống thời gian thực và thông tin tình báo của các tàu Trung Quốc. Ngoài ra việc vệ tinh này được Pháp quản lý cũng có thể họ sẽ không hợp tác với các yêu cầu về quân sự từ Việt Nam do áp lực từ Trung Quốc. Nếu lực lượng giám sát trên không không thể tìm thấy mục tiêu hàng hải cho cuộc chiến thì hầu như các đơn vị chiến đấu sẽ khó có thể chiến đấu một cách hiệu quả và khó có thể tối ưu hóa được hỏa lực.
Thứ hai, Việt Nam có một số lượng nhỏ của các hệ thống trang thiết bị vũ khí hiện đại, nhưng ít hơn nhiều so với Trung Quốc. Quân đội Việt Nam với số lượng các máy bay chiến đấu hiện có, cùng với các loại tàu chiến mặt nước và tàu ngầm, thì số lượng này vẫn ít hơn một nửa so với số trạng bị của Quân khu Quảng Châu của Trung Quốc. Với lực lượng nhỏ, Việt Nam sẽ gặp rất nhiều bất lợi trong một cuộc chiến tiêu hao, lực lượng tàu ngầm của Việt Nam có thể giúp khắc phục một số nhược điểm không đối xứng trong ngắn hạn, tuy nhiên cuộc chiến có thể sẽ kéo dài. Quân đội Trung Quốc cũng có thể triển khai lực lượng tàu ngầm bên ngoài căn cứ quân sự lớn Cam Ranh của Việt Nam để giám sát các hoạt động của hải quân Việt Nam.
Thứ ba, cả Hà Nội và Bắc Kinh đều mua một số hệ thống trang thiết bị vũ khí của Nga, như máy bay chiến đấu Su-30MK2, tàu ngầm Kilo 636 và tên lửa phòng không S-300 PMU-1. Trung Quốc là quốc gia đã sử dụng thành thạo và nắm bắt được tất cả các kỹ năng chiến thuật chiến đấu của các loại trang bị vũ khí này, tuy nhiên Việt Nam có thể chưa. Do đó quân đội Việt Nam có thể sẽ bị mất đi yếu tố bất ngờ chiến thuật, vốn là yếu tố bù đắp cho những điểm yếu của họ.
Thứ tư, đó là những hạn chế về ngân sách quốc phòng cũng là yếu tố ngăn cản việc Việt Nam đặt hàng vũ khí với số lượng lớn. Do đó khó có khả năng quân đội Việt Nam sẽ có một khả năng đáng kể trong tương lai gần.
Với những lý do trên Tiến sĩ Ngô đã kết luận rằng, việc hiện đại hóa quân sự của Việt Nam có thể không thành công cho mục tiêu A2/AD.
Tuy nhiên trong bài viết này Tiến sĩ Ngô cũng lưu ý rằng, những nỗ lực hiện đại hóa quốc phòng của Việt Nam không phải là vô hiệu trước sức mạnh khổng lồ của Trung Quốc với hai lý do.
Thứ nhất, Việt Nam có thể để ngăn chặn Trung Quốc tốt hơn nhiều so với trước đó. So với cuối của thế kỷ trước, hiện nay tiềm lực quốc phòng của Việt Nam đủ sức răn đe để Trung Quốc phải suy tính kỹ hơn so với trước đó nhiều lần. Để đảm bảo một kết quả thắng lợi, quân đội Trung Quốc sẽ phải triển khai nhiều hơn nữa các đơn vị chiến đấu để đối phó với Việt Nam. Tuy nhiên, việc triển khai nhiều đơn vị sẽ làm giảm yếu tố bất ngờ chiến lược và để lại một hình ảnh không tích cực về Trung Quốc trong cộng đồng quốc tế. Việc Philippines khi đối mặt với áp lực chiến lược từ Trung Quốc, họ đã tăng cường khả năng quốc phòng của mình bằng cách ký Hiệp định hợp tác quốc phòng (EDCA) với Hoa Kỳ, từ đó những khoản đầu tư đáng kể của Việt Nam cũng có thể gây nên những khó khăn nhất định đối với ý định mở rộng lãnh thổ hay sự quyết đoán của Trung Quốc.
Thứ hai, việc Việt Nam hiện đại hóa quốc phòng cũng có thể là một lá bài mặc cả trên bàn đàm phán với các cường quốc khác. Những khoản đầu tư của Việt Nam cho quốc phòng nhằm làm giảm đi sự can thiệp của cường quốc khác nhằm đảm bảo và bảo vệ các cam kết và lợi ích của mình chứ không phụ thuộc vào quốc gia nào. Điều này sẽ làm gia tăng đáng kể khả năng răn đe mở rộng hoặc sự can thiệp từ bên ngoài từ một bên thứ ba, từ đó sẽ giúp cải thiện đáng kể cán cân quân sự giữa Việt Nam và Trung Quốc. Nhưng trong bối cảnh Trung Quốc ngày càng gia tăng khả năng kinh tế và quân sự, thì bên thứ ba muốn can thiệp để hỗ trợ Việt Nam cũng có thể sẽ ngần ngại vì sẽ có những hao tổn lớn.
Kết luận bài viết Tiến sĩ Ngô cho rằng, mặc dù Việt Nam đã và đang đầu tư cho việc hiện đại hóa quân đội, nhưng Việt Nam vẫn không thay đổi thái độ với Trung Quốc. Mặc dù hai nước vẫn đang có những mâu thuẫn về chủ quyền lãnh thổ, nhưng Việt Nam vẫn giữ các đường dây liên lạc với Trung Quốc qua các kênh, Việt Nam vẫn giữ thái độ thận trọng với Trung Quốc.
Tags:
Biển Đông
Comments[ 0 ]
Post a Comment