...Sự thật là như vậy, không phải không có một kế hoạch tái chiếm Hoàng Sa bằng không quân. Trung Quốc hiểu điều này, và họ đã rất dè dặt khi có những động thái xâm lấn chủ quyền biển đảo Việt Nam. Họ sẵn sàng nướng các tàu tiền tiêu cổ lỗ này và bỏ mồi quay về, hoặc giữ thế cài răng lược mỗi bên giữ một nửa với VNCH. Song, khi mà tàu HQ-16 bị chính tàu phe mình bắn hỏng, khi mà một trận không tập nhấn chìm toàn bộ các tàu Trung Quốc không có, thì họ đã chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa...
LTS: Bạn đọc ở hải ngoại đã từng đọc từng nghe rất nhiều bài tường thuật về trận hải chiến Hoàng Sa của quân đội VNCH tháng 1 năm 1974. Ở đây, bỏ qua những từ ngữ có thể gây xúc cảm (đối với những người ở miền Nam thời chiến tranh) trong bài viết của một tác giả thuộc chính quyền miền Bắc, những dữ kiện trình bày sau đây đáng để cho ta suy nghĩ, yếu tố nào là tuyên truyền phóng đại, yếu tố nào là sự thực. Trang nhà đăng lại với một chút thay đổi trên tựa đề. Mục đích của chúng tôi đăng bài này chỉ là có thêm một tiếng chuông, thêm một số dữ kiện để biết. Ngoài ra, xin được giữ lại y nguyên sự kính trọng đối với những quân nhân VNCH đã hy sinh cho trận chiến. (SH)
Vài năm trở lại đây, gần đến những ngày đánh dấu thời gian quần đảo Hoàng Sa bị Trung Quốc cưỡng chiếm, báo chí lại "thắp lên ngọn lửa lịch sử" để nhắc nhở người dân Việt về một phần máu thịt đang chịu cảnh chia lìa. Điều đó là hoàn toàn chính đáng và đáng hoan nghênh. Tuy nhiên, có vẻ như sự hời hợt trong nghiên cứu, tìm hiểu ngọn ngành sự thực lịch sử bấy giờ cùng tình trạng làm báo "ăn xổi ở thì" của không ít cơ quan báo chí hiện nay dẫn đến công việc ý nghĩa này lại "lợi bất cập hại". Rất nhiều bài báo trong những năm gần đây chỉ tập trung vào khai thác thông tin một chiều từ một vài cựu quân nhân chế độ Sài Gòn, các thông tin từ những cuốn hồi ký của 1 vài sỹ quan hải quân ngụy quyền,... rồi mặc nhiên coi đó là sự thật lịch sử để cung cấp cho đông đảo bạn đọc. Thậm chí, không ít bài báo còn cổ súy, kêu gọi việc tôn vinh các "anh hùng" đã hy sinh trong việc bảo vệ (bất thành) Hoàng Sa. Tôi dù không phải là một người nghiên cứu sử nhưng cũng đã tìm đọc khá nhiều thông tin trái chiều từ chính những người đã tham gia trận hải chiến Hoàng Sa này và bằng sự chọn lọc, suy luận và tư duy, tôi tin rằng sự thực lịch sử không được "hoành tráng" như những gì báo chí đăng tải. Không phải cực đoan nhưng trong thâm tâm tôi cũng khó mà tin rằng một chế độ cầm đầu bởi những kẻ hôm trước là đầy tớ cho Pháp hôm sau là tay sai cho Mỹ mà bỗng dưng lại "yêu nước" quyết sống mái với một cường quốc khác. Mới đây, báo điện tử Giáo dục Việt Nam đã đăng tải loạt bài về sự kiện Hoàng Sa của Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ mà tôi thấy rằng có những thông tin không hợp lý và cũng theo lối mòn dữ liệu (tô vẽ) lịch sử từ các nguồn trước đó. Nhưng không chỉ có tôi mà khá nhiều bạn đọc thích tìm hiểu lịch sử, chính trị, quân sự khác cũng nghi ngờ các thông tin của loạt bài này. Xin giới thiệu với các bạn ngay dưới đây một bài viết như thế của tác giả Linh Nguyễn đăng trên Facebook (tôi có hiệu đính chút đỉnh).
Đã 39 năm qua, Quần đảo Hoàng Sa thân yêu của chúng ta nằm trong tay Trung Quốc. Từ đó đến nay, “nỗi nhớ” Hoàng Sa vẫn rực cháy trong tim mỗi người VN. Và cũng từng thời gian đó nhà nước VN vẫn đang tìm mọi cách đấu tranh đòi lại những gì của tổ tiên chúng ta bao đời dựng xây để lại cho con cháu hôm nay.
Mới đây tôi có đọc loạt bài viết trên báo giáo dục của tiến sỹ Trần Công Trục về sự kiện Hoàng Sa thất thủ. Sau khi theo dõi 6 bài đầu tiên của bài viết này, tôi nhận thấy: Loạt bài của tiến sĩ Trần Công Trục có nội dung rất giống với bài viết của Đại tá Hà Văn Ngạc, nguyên Hải đội trưởng Hải đội III Tuần dương của Hải quân VNCH. Có thể nói không ngần ngại rằng, tiến sĩ Trần Công Trục chỉ biên tập lại bài viết của đại tá Hà Văn Ngạc, mà không có kiểm định kĩ càng, dẫn đến sai lệch sự thật. Cách dùng từ trong bài viết của tiến sĩ Trục cũng không còn phù hợp với độc giả hiện nay. Rõ ràng, việc sử dụng nguồn sử liệu của chế độ cũ (VNCH) cần một cái nhìn khách quan và thấu đáo, để tránh xảy ra những sai sót hay ngộ nhận.
☞ Xem chi tiết bài viết của Đại tá Hà Văn Ngạc của VNCH tại địa chỉ: http://www.congdongnguoiviet.fr/index.php?option=com_content&view=article&id=955%3Atthchs&catid=71%3Abdc&Itemid=95
Nhiều vấn đề bất hợp lí
Ở đây, xin đề cập đến hai điểm bất hợp lí, có thể nói là bịa đặt của Đại tá Hải quân VNCH Hà Văn Ngạc. Đại tá Ngạc đã mất năm 1999, nên không loại trừ khả năng các thế lực thù địch đã mượn danh ông để xuyên tạc sự thật.
Trước hết, bài viết cho rằng: Trung Quốc đã sử dụng các tàu tên lửa cao tốc Komar (Đề án 183R) của Liên Xô để tấn công, khiến hải đội tàu VNCH buộc phải rút lui. 4 tàu tên lửa loại này cũng đã được Liên Xô viện trợ cho Hải quân Nhân dân Việt Nam trong năm 1972, nên cũng rất quen thuộc với các sĩ quan hải quân của ta. Tàu có vỏ bằng gỗ, khung và thượng tầng là hợp kim nhôm, nặng 66,5 tấn, thủy thủ đoàn 17 người, tốc độ tối đa 44 hải lí/h. Tàu tên lửa cao tốc Komar được trang bị 2 bệ phóng tên lửa diệt hạm P-15 Termit, có tầm bắn 40km và một pháo 25mm nòng đôi. Tuy nhiên, đây là loại tàu rất nhỏ, chỉ bắn được tên lửa trong điều kiện tối đa là sóng cấp 4. Quan trọng hơn, tàu khó có thể hoạt động trên biển lâu hơn 1 ngày, để tránh thời tiết xấu. Do đó, việc tàu tên lửa cao tốc Komar xuất hiện trong trận Hải chiến Hoàng Sa ngày 19-1-1974 là không chính xác!
Thứ hai, bài viết có đề cập đến chi tiết 4 máy bay MiG-21 và MiG-23 của Trung Quốc đã ném bom quần đảo Hoàng Sa. Đây tiếp tục là một điều bịa đặt. Bởi lẽ, lúc này Trung Quốc không hề có loại máy bay MiG-23. Máy bay MiG-23 cất cánh lần đầu ngày 10-6-1967, khi đó quan hệ Xô – Trung đã có nhiều rạn nứt, nên Liên Xô đã cắt viện trợ, và rút chuyên gia về nước. Trung Quốc có thể có một số máy bay MiG-23 thông qua việc mua bán bí mật với Ai Cập, song họ không thể đưa loại máy bay này vào biên chế trực chiến.
Còn về MIG-21 thì không đủ cự ly tác chiến ớ HS trừ khi phi công ném bom xong nhảy dù đào thoát.
Năm 1969 Trung -Xô dàn cả triệu quân đánh nhau tàn bạo ở biên giới.
Đảo cù lao Trân Bảo thuộc Liên Xô, TQ đánh chiếm. Hai bên đánh nhau, LX giành lại được đảo.
Sau xung đột biên giới 1969 Mao Trạch Đông leo lẻo chửi ban lãnh đaọ Liên Xô là tập đoàn xét lại liên Xô.
Liên Xô không có bán vũ khí cho TQ giai đoạn này mà 1974 TQ có Mig 21 &23 để oanh tạc Hoàng Sa? TQ chỉ có Mig 17 mà Liên Xô trang bị cho trước đó (?)
Nếu là tài liệu của VNCH thì cũng chỉ là tào lao, muốn đổ cho TQ quá mạnh nên VNCH không giành lại được Hoàng Sa??? (Không quân VNCH xếp hàng thứ 3/ thế giới đâu sao không dùng giành đảo?)
Vậy Trung Quốc có máy bay gì tham chiến ở Hoàng Sa?
Không quân Trung Quốc thời điểm đó chỉ có các máy bay J-7, là một phiên bản sao chép lại của máy bay MiG-21. Song J-7 chỉ là một máy bay tiêm kích đánh chặn, bán kính chiến đấu của nó chỉ vào khoảng 450-500km. Đây là con số dành cho nhiệm vụ tiêm kích đánh chặn, và con số này sẽ giảm mạnh khi máy bay mang bom. Trong khi đó, khoảng cách từ các sân bay gần nhất của Trung Quốc trên đảo Hải Nam đến quần đảo Hoàng Sa là 230 hải lí, tức 430km! Đây cũng là chỉ là con số lí tưởng. Trong khi đó, chiến sự lại diễn ra chủ yếu ở khu vực đảo Duy Mộng và Quang Hào, nằm sâu về phía Tây Nam quần đảo, nên khoảng cách tác chiến của không quân Trung Quốc lớn hơn nhiều. Nói cách khác, máy bay của Trung Quốc không đủ tầm bay ra Hoàng Sa. Quân Trung Quốc thời điểm năm 1974 chưa có năng lực tiếp dầu trên không, nên không thể đưa máy bay chiến đấu J-7 ra quần đảo Hoàng Sa tham chiến, trừ phi bay đi ném bom và nhảy dù bỏ máy bay!
Từ đó, ta có thể thấy: Bài viết của Đại tá VNCH Hà Văn Ngạc có nhiều chi tiết là bịa đặt. Việc tiến sĩ Trần Công Trục và báo điện tử Giáo dục Việt Nam đăng tải các tài liệu này là hành vi xuyên tạc lịch sử.
Thực ra việc quần đảo HS bị mất trong đó có sự tiếp tay đi đêm của Mỹ và sự hèn nhát bạc nhược của sỹ quan binh lính VNCH. Lực lượng tác chiến VNCH lúc đó vượt trội hơn hẳn Trung Quốc.
Chưa nói tới lực lượng "không quân thứ 3 thế giới" với hàng trăm máy bay F5, A37 đủ sức tác chiến vươn tới HS. Nhưng điều đó đã không bao giờ xảy ra.
☞ Để bạn đọc tham khảo, xin đưa ra bài viết của Trung tá Hải quân VNCH Lê Văn Thự, người trực tiếp tham gia trận đánh tại địa chỉ: http://danluan.org/tin-tuc/20130119/le-van-thu-su-that-ve-tran-hai-chien-hoang-sa
Theo đánh giá của tôi, tuy góc nhìn của Trung tá Lê Văn Thự chưa đầy đủ, nhưng đã phản ánh được khá chính xác sự thật lịch sử diễn ra trong trận Hải chiến Trường Sa 19-1-1974. Trung tá Lê Văn Thự đã thẳng thắn nhìn nhận sự thật, thừa nhận nhiều hạn chế của bản thân, cũng như những thiếu sót của hải quân VNCH trong thất bại tại quần đảo Hoàng Sa. Đó là thái độ cầu thị của một con người có lương tâm, trách nhiệm và tự trọng. Trung tá Thự cũng đã chỉ ra nhiều điểm sai sự thật trong bài viết của Đại tá Hải quân VNCH Hà Văn Ngạc.
Sự thật về trận Hải chiến Hoàng Sa
Trong thời điểm nổ ra chiến sự, lực lượng phía Hải quân Trung Quốc có 6 tàu chiến. Trong đó, lớn nhất là hai tàu săn ngầm Kronstadt (Đề án 122bis) của Liên Xô, nặng khoảng 300 tấn, tốc độ tối đa 20 hải lí/h, vũ khí (không tính các vũ khí chống ngầm không có giá trị trong hải chiến) có 1 pháo 85mm và 3 pháo 37mm. Đây là các pháo lưỡng dụng vừa phòng không, vừa chống tàu. Tiếp đó là 2 tàu quét mìn T.43 sao chép từ mẫu tàu quét mìn SO-1 (Đề án 201) của Liên Xô, nặng khoảng hơn 200 tấn, tốc độ tối đa 25 hải lí/h, vũ khí chống tàu có 2 pháo nòng kép 57mm và 2 pháo nòng kép 25mm. Ngoài ra, còn có hai tàu đánh cá mang pháo 25mm và một tàu vận tải cỡ trung.
Trong khi đó, phía Hải quân VNCH tung vào trận 4 tàu chiến: khu trục hạm HQ-04 Trần Khánh Dư, nặng khoảng 1.590 tấn, tốc độ tối đa 21 hải lí/h, vũ khí có 3 pháo bắn nhanh 76mm điều khiển bằng radar, 1 pháo 40mm nòng kép và 8 pháo phòng không 20mm. Hai hộ tống hạm HQ-05 Trần Bình Trọng và HQ-16 Lý Thường Kiệt, nặng khoảng 2.500 tấn, tốc độ tối đa 20 hải lí/h, vũ khí có 1 pháo đa năng 127mm, 1 cụm 4 pháo phòng 40mm, 2 pháo nòng kép 40mm và 6 pháo phòng không 20mm. Tàu quét mìn HQ-10 Nhật Tảo, nặng 650 tấn, tốc độ tối đa 15 hải lí/h, vũ khí chống tàu có 1 pháo 76mm, 4 pháo 40mm và 6 pháo phòng không 20mm.
Bốn chiến hạm của Hải quân Việt Nam Cộng Hòa đã tham dự trận hải chiến Hoàng Sa bảo vệ chủ quyền của Việt Nam năm 1974 (HQ-4, HQ-5, HQ-10, HQ-16)
Như vậy, chúng ta có thể thấy rõ: Phía Hải quân VNCH chiếm ưu thế tuyệt đối về hỏa lực. Trung Quốc không có pháo 127mm mà phía VNCH có. Trung Quốc chỉ có 2 pháo 85mm, VNCH có 4 pháo 76mm, trong đó khu trục hạm HQ-05 mang 3 pháo 76mm được điều khiển bằng radar, có tốc độ bắn cao 20 phát/phút. Trung Quốc chỉ có 4 nòng pháo 57mm, 3 pháo 37mm, VNCH có 22 nòng pháo 40mm. Trung Quốc chỉ có 8 nòng pháo 25mm, VNCH có 26 pháo 20mm! Thực sự, chỉ cần mình tàu HQ-05 tham chiến, thì đã có thể đánh chìm toàn bộ 6 tàu Trung Quốc bằng các pháo bắn nhanh 76mm (!)
Vậy tại sao phía VNCH lại thất bại?
Theo dữ liệu từ bài viết của Trung tá Lê Văn Thự, ta phần nào hình dung ra sự việc:
Trước hết, lực lượng tham chiến thực sự trong Hải chiến Hoàng Sa chỉ là hai tàu HQ-10 và HQ-16. Hai tàu HQ-04, HQ-05 chỉ đứng ngoài quan sát, và sau đó rút lui khi HQ-10 bị đánh chìm. Nếu như các tướng lĩnh VNCH không quá hèn nhát, thì có thể hiểu rằng: Đây là lực lượng dự bị mạnh của Hải quân VNCH, để sẵn sàng đối phó với những tình huống bất ngờ có thể xảy ra, khi phía Trung Quốc điều quân tăng viện.
Phát hiện thấy các tàu Trung Quốc co cụm trong khu vực lòng chảo Hoàng Sa, chỉ có hai đường ra vào, trung tá Lê Văn Thự đã lên kế hoạch: Hai tàu HQ-10 Nhật Tảo của thiếu tá thuyền trưởng Ngụy Văn Thà, và HQ-16 Lý Thường Kiệt của trung tá thuyền trưởng Lê Văn Thự chia nhau chặn hai đường ra vào lòng chảo Hoàng Sa, nhốt các tàu Trung Quốc ở trong để tiêu diệt. Sở dĩ phải làm vậy, vì các tàu của Hải quân VNCH lớn hơn rất nhiều tàu Trung Quốc, và di chuyển chậm chạp hơn. Đánh tàu địch ở thế trận đó sẽ vô hiệu hóa sức cơ động cao của các tàu nhỏ Trung Quốc. Dĩ nhiên, chỉ hai tàu HQ-10 và HQ-16 cũng đã là quá mạnh so với lực lượng Trung Quốc. Tàu HQ-10 Nhật Tảo bé nhất hải đội VNCH, nhưng cũng lớn gấp đôi tàu chiến Kronstadt của Trung Quốc.
Tàu HQ-10 của VNCH. Ảnh http://haichienhoangsa.freetzi.com
Chiếc Kronstadt 271 của Trung Quốc
Chiếc Kronstadt 271 của Trung Quốc
HQ-16 mở màn trận đánh, khai hỏa trước ở cự li khoảng 4 hải lí, sau đó là HQ-10. Sau khoảng 20 phút, một tàu Kronstadt mang số hiệu 274 của Trung Quốc đã bị đánh cháy, buộc phải bỏ chạy. Nhưng không ai ngờ, HQ-16 bị trúng đạn pháo 127mm của … chính tàu HQ-5!
May mắn là viên đạn không nổ ("May là viên đạn không nổ, chứ nổ thì HQ-16 chìm tại chỗ! Lấy được viên đạn ra, toán tháo gỡ đạn dược ngạc nhiên cho biết rằng viên đạn “made in USA” và cỡ 127 ly. Sau này truy ra mới biết là đạn do HQ-5 bắn.") song tàu bị thiệt hại nặng, hỏng một máy, buộc phải rút lui bảo toàn lực lượng. Phía Trung Quốc dồn sức đánh vào tàu yếu hơn là HQ-10, đánh chìm tàu này, khiến Thiếu tá thuyền trưởng Ngụy Văn Thà tử trận.
Hành động của hai tàu HQ-04 và HQ-05 thật đáng ngờ! HQ-04 là tàu hiện đại nhất của hải đội, đủ sức đánh bại toàn bộ đội tàu Trung Quốc, nhưng lại đứng nhìn, không hề có các động thái chi viện cho đồng đội. HQ-05 thì khai hỏa bắn hỏng tàu HQ-16! Có thể nói rằng, trong trận đánh này, công của Hải quân Trung Quốc rất nhỏ, công lao chủ yếu dành cho tàu HQ-05 đã bắn hỏng tàu HQ-16, và có thể là cả HQ-10. Sau trận chiến, HQ-04 và HQ-05 tháo chạy về phía căn cứ Subic của Philipine, chúng không hề bị trầy sơn, chứ đừng nói đến tham chiến hay trúng đạn của tàu Trung Quốc. Thực tế, chỉ có hai tàu HQ-10 Nhật Tảo và HQ-16 Lý Thường Kiệt thực sự chiến đấu với 6 tàu Trung Quốc, và họ đã giành chiến thắng, nếu như không có phát đạn 127mm bắn hỏng tàu HQ-16, và có thể là cả tàu HQ-10.
Trung tá Lê Văn Thự cũng chỉ rõ hàng loạt sai sót của Hải quân VNCH trong trận đánh này, có thể trích ra như sau:
- Không sử dụng những phương tiện hiệu quả để đối phó với tàu Trung Quốc. Các tàu HQ-10, HQ-16 của VNCH đều là tàu lớn, di chuyển kém linh hoạt, vũ khí bắn thủ công kém chính xác. Thủy thủ đoàn chưa quen hải chiến, mà chỉ quen yểm trợ hỏa lực cho bờ biển. HQ-04 là loại tàu chiến hiệu quả để tác chiến với tàu Trung Quốc, có hỏa lực cực mạnh đủ sức đánh chìm cả 6 tàu, nhưng lại đứng ngoài.
- Không có bác sĩ trên tàu, binh sĩ bị thương không được chăm sóc đầy đủ, nên đã thiệt mạng vô ích.
- Đưa biệt kích lên giữ đảo, nhưng không hề chuẩn bị lương thực, đạn dược, không có biện pháp tiếp tế để đảm bảo bám trụ lâu dài. Khi hải quân VNCH rút lui đã bỏ mặc toán biệt kích trên đảo, khiến họ phải vượt biển bằng bè, và 1 người đã chết trên biển vì khát nước.
Không quân VNCH ở đâu?
Thái độ đáng ngờ của các tàu HQ-04, HQ-05, cùng hàng loạt biến động chính trị giữa ba cường quốc Mỹ - Xô – Trung trong giai đoạn này, khiến ta đặt dấu hỏi: Liệu VNCH có thực sự quyết tâm bảo vệ quần đảo Trường Sa.
Trong hoàn cảnh đó, kể cả khi hải quân thua trận, thì phía VNCH hoàn toàn đủ sức tiêu diệt hết các tàu Trung Quốc bằng không quân. Họ có đội máy bay cường kích lớn thứ ba thế giới, chỉ sau hai siêu cường Mĩ và Liên Xô. Khoảng cách từ Đà Nẵng ra quần đảo Hoàng Sa là khoảng 200 hải lí, tức khoảng 370km, nằm trong tầm tác chiến của hai loại máy bay F-5 và A-37, mà không quân VNCH có hàng trăm chiếc. Máy bay tiêm kích hạng nhẹ F-5 có bán kính chiến đấu 1.400km, mang được 3.200kg vũ khí gồm tên lửa không đối không và bom, rocket các loại. Máy bay cường kích A-37 có bán kính chiến đấu 740km, mang được 1.230kg bom và rocket.
Và cũng cần nói thêm rằng, hỏa lực phòng không của các tàu chiến Trung Quốc gần như là con số không. Họ thậm chí không có radar phòng không hay radar điều khiển hỏa lực, mà đơn thuần là các pháo phòng không 57mm, 37mm và 25mm bắn thủ công, với tốc độ chậm. Không quân VNCH thừa sức tiêu diệt các tàu này, nhưng một trận đánh phục thù giành lại Hoàng Sa đã không diễn ra, đó là vì sao.
Kí ức buồn này cũng đã được phi công Nguyễn Thành Trung kể lại như sau:
Đến giờ này tôi vẫn ân hận, tiếc là không được chết vì Hoàng Sa. Ngày 18.1.1974, hải quân Trung Quốc đổ bộ lên chiếm đảo Hoàng Sa, phía Việt Nam Cộng hoà khi đó có một đại đội địa phương quân chốt trên đảo Phú Lâm. Hai bên đánh nhau, cùng có thương vong về con người nhưng quân số Trung Quốc đông quá, 51 lính địa phương quân của ta bị bắt đưa về Trung Quốc. Việt Nam Cộng hoà lên tiếng phản đối việc Trung Quốc dùng sức mạnh quân sự để chiếm đảo của Việt Nam một cách phi pháp. Đây là sự kiện lớn, dư luận thế giới cũng phản đối việc đó.
Lúc này hải quân của Việt Nam Cộng hoà không thể đổ bộ chiếm lại đảo được. Ngày 19.1.1974, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu điều năm phi đoàn F5, bốn ở sân bay Biên Hoà, một ở sân bay Đà Nẵng, mỗi phi đoàn có 24 máy bay và 120 phi công ra Đà Nẵng chuẩn bị đánh lấy lại Hoàng Sa. Mọi người rất phấn khởi, tụi tôi đi ra với tư thế là đi lấy lại một phần lãnh thổ đất nước. Sĩ quan cấp tá ở các phi đoàn 520 – Nguyễn Văn Dũng, 536 – Đàm Thượng Vũ, 540 – Nguyễn Văn Thanh, 544 – Đặng Văn Quang, 538 – Nguyễn Văn Giàu đều đã lên kế hoạch tác chiến kỹ lưỡng.
150 phi công thuộc sáu phi đoàn F5 của không lực Việt Nam Cộng hoà khi đó đều ký tên chung vào một lá đơn tình nguyện “Xin được chết vì Hoàng Sa”.
Hàng ngày, máy bay RF5 có nhiệm vụ bay và chụp ảnh các toạ độ từ nhỏ nhất ở Hoàng Sa, xem có thay đổi gì, tàu chiến Trung Quốc di chuyển ra sao, bố trí các cụm phòng thủ thế nào… đưa về chiếu ra cho tất cả phi công theo dõi. Tụi tôi đếm từng tàu một, thậm chí đếm được cả số ghi trên tàu, chia bản đồ ra làm bốn, mỗi góc tư giao cho một phi đoàn, phi đoàn thứ năm bay bảo vệ trên không. Họ có 43 tàu tất cả và quyết tâm của tụi tôi là đánh chìm tất cả 43 tàu đó trong vài giờ.
Về không quân, vào thời điểm đó chúng tôi có nhiều lợi thế hơn Trung Quốc. Bay từ Đà Nẵng ra Hoàng Sa bằng cự ly từ đảo Hải Nam ra. Ưu thế của phi đội tụi tôi là máy bay bay ra, đánh nửa tiếng vẫn thừa dầu bay về còn Trung Quốc chỉ có Mig 21, bay ra đến Hoàng Sa thì không đủ dầu bay về. Khí thế phi công lúc đó hừng hực, mấy anh chỉ huy trưởng từ đại tá trở xuống đòi đi đánh trước. Tất cả háo hức chờ đến giờ G là xuất kích. Nhưng giờ G ấy đã không đến. Hạm đội 7 của Mỹ trên biển không cứu các hạm đội của đồng minh Việt Nam Cộng hoà bị bắn chìm và bị thương trên đảo. Dường như vì lợi ích của mình, các quốc gia lớn có quyền mặc cả và thương lượng bất chấp sự toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia khác.
Một mảnh đất dù nhỏ cũng là tổ quốc mình, cha ông ta đã đắp xây nên bờ cõi, là con dân của đất nước ai cũng có nghĩa vụ thiêng liêng gìn giữ lấy. Tụi tôi háo hức sẵn sàng tất cả nhưng cuối cùng không được chết cho Hoàng Sa. Tới bây giờ tôi vẫn ân hận. Sau này bạn bè tôi gặp lại nhau cũng cùng một tâm trạng: đáng lẽ tụi mình chết cho Hoàng Sa thì vinh dự hơn!
Sự thật là như vậy, không phải không có một kế hoạch tái chiếm Hoàng Sa bằng không quân. Trung Quốc hiểu điều này, và họ đã rất dè dặt khi có những động thái xâm lấn chủ quyền biển đảo Việt Nam. Họ sẵn sàng nướng các tàu tiền tiêu cổ lỗ này và bỏ mồi quay về, hoặc giữ thế cài răng lược mỗi bên giữ một nửa với VNCH. Song, khi mà tàu HQ-16 bị chính tàu phe mình bắn hỏng, khi mà một trận không tập nhấn chìm toàn bộ các tàu Trung Quốc không có, thì họ đã chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa.
Câu trả lời cho vấn đề này, có lẽ xin nhường lời cho người phi công anh hùng Nguyễn Thành Trung: Dường như vì lợi ích của mình, các quốc gia lớn có quyền mặc cả và thương lượng bất chấp sự toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia khác. Một mảnh đất dù nhỏ cũng là tổ quốc mình, cha ông ta đã đắp xây nên bờ cõi, là con dân của đất nước ai cũng có nghĩa vụ thiêng liêng gìn giữ lấy.
Tôi cũng đã gửi câu hỏi lên báo giáo dục.nhưng cũng chưa có hồi âm chính đảng.mong báo giáo dục trao đối lại với tác giả:
Nguyễn Thanh Tùng - Sachhiem.net
Comments[ 0 ]
Post a Comment