Nhờ có tiềm lực đóng tàu lớn nhất thế giới, sự kiện này sẽ nhanh chóng dẫn tới việc xây dựng lực lượng hải quân lớn thứ 2 trên thế giới. Mặc dù chất lượng lượng sẽ không cao, nhưng hải quân nước này chỉ thua kém các lực lượng hải quân tiên tiến nhất trên thế giới hiện nay của Mỹ, Nhật và Hàn Quốc. Sự phát triển trong tương lai của hải quân PLA chắc chắn sẽ diễn ra theo lộ trình đóng những con tàu sân bay.
Nếu Trung Quốc không có ý định đóng những con tàu sân bay thì họ đã chẳng mua chiếc “Variag”được hoán cải với tên gọi mới “Liêu Ninh”. Do đặc điểm kết cấu của mình, chiến hạm này không phải là một chiếc tàu sân bay đúng nghĩa và sẽ được sử dụng trong lực lượng hải quân PLA như một con tàu huấn luyện- thử nghiệm. Sau đó sẽ đóng hàng loạt tàu sân bay thông thường ngay ở trong nước theo mẩu thiết kế của Trung Quốc, nếu không thì đã không cần thiết phải có con tàu thử nghiệm.
Chắc chắn Bắc Kinh sẽ khởi công đóng các tàu sân bay lớn, vượt Liêu Ninh và có thể sánh với các tàu sân bay Mỹ về kích thước. Việc đóng các tàu sân bay kích thước nhỏ hơn là vô nghĩa, bởi vì những chiến hạm lớp này sẽ được đóng để phục vụ cho các chiến dịch ở vùng biển hoặc đại dương xa xôi, hoặc cho những trận hải chiến với kẻ thù rất mạnh (lực lượng hải quân Mỹ và Nhật), hoặc thậm chí để sử dụng chống lại đối tượng tác chiến quan trọng ở rất xa bờ biển Trung Quốc (lực lượng hải quân Mỹ hoặc Ấn Độ). Dù trong trường hợp nào thì trên mỗi con tàu như thế cũng cần phải có càng nhiều máy bay, nhiên liệu, đạn dược càng tốt.
Tất nhiên, lúc này không thể xác định chính xác số lượng tàu sân bay dự kiến được đóng. Có lẽ sẽ là 6 chiếc (không kể Liêu Ninh)- mỗi hạm đội của Trung Quốc sẽ có 2 chiếc (Bắc Hải, Đông Hải , Nam Hải), cũng giống như số tàu sân bay có trong biên chế hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ. Trong binh đoàn tàu sân bay, ngoài bản thân con tàu này, còn có 2-4 khu trục hạm mẫu thiết kế 052C/D và cũng chừng đó khinh hạm mẫu thiết kế 054A (hoặc trong tương lai là các khu trục hạm và khinh hạm kiểu mới), và cả 2-3 tàu bổ trợ. Tới thời điểm tàu sân bay đầu tiên được đưa vào sử dụng, chắc chắn sẽ có đủ số hộ tống hạm cần thiết cho chúng.
Cần phải đóng tàu sân bay của mình
Khó khăn của Trung Quốc là chưa có kinh nghiệm đóng những con tàu như thế. Variag-Liêu Ninh và những chiến hạm Kiev và Minsk mua của Liên Xô, Melbourne mua của Australia không đảm bảo đủ cho các nhà khoa học và kỹ sư Trung Quốc những công nghệ cần thiết do kích thước nhỏ và sự lạc hậu về kết cấu tổng thể của chúng. Có khả năng, các kỹ sư Trung Quốc sẽ nghiên cứu tỉ mỷ tàu sân bay Sao Paulo của Brazil (Foch cũ của Pháp) nhưng giá trị của nó cũng hạn chế: con tàu này có kích thước nhỏ hơn Liêu Ninh, đồng thời được đóng sớm hơn rất nhiều. Người Trung Quốc chỉ quan tâm tới máy phóng của con tàu này. Bởi vì, Trung Quốc sẽ phải đóng tàu sân bay của riêng mình, dù phải sao chép những giải pháp của nước ngoài.
Vấn đề quan trọng nhất là tàu sân bay mới sẽ sử dụng nguồn năng lượng thông thường hay năng lượng hạt nhân. Hiện nay ở Trung Quốc, trong tất cả các lĩnh vực của tổ hợp công nghiệp quân sự, vấn đề quan trọng nhất chính là chế tạo động cơ (xe tăng, máy bay, tàu chiến). Giải quyết nhiệm vụ chế tạo ngay cả thiết bị động lực thông thường cho tàu sân bay cũng là vấn đề cực kỳ phức tạp đối với tổ hợp này chứ chưa nói tới chế tạo lò phản ứng hạt nhân không hề đơn giản. Xin nói thêm rằng, Bắc Kinh từ lâu đã chế tạo thiết bị động lực hạt nhân cho tàu ngầm nguyên tử mang tên lửa đạn đạo và tàu ngầm nguyên tử, vì vậy nước này hoàn toàn có đủ khả năng chế tạo lò phản ứng cho các hạm nổi.
Một vấn đề không kém phần quan trọng là lựa chọn loại máy bay trên boong cho tàu sân bay mới. Đó có thể không chỉ là loại J-15 đã có 2 phiên bản được sao chép từ nguyên mẫu Su-33 đời đầu, mà còn là các biến thể của J-10 và J-31 mới trên boong đang kỳ vọng được coi là máy bay tiêm kích thế hệ thứ 5. Hiện nay chưa có những biến thể này, nhưng việc nghiên cứu chế tạo chúng đang được tiến hành. Cũng có thể là sự lai ghép của những biến thể này. Ngoài ra, Trung Quốc nhất định sẽ nghiên cứu chế tạo máy bay trinh sát cảnh báo sớm. Đây là nhiệm vụ tương đối phức tạp, mà hiện nay mới chỉ có Mỹ giải quyết được.
Theo kinh nghiệm của thế giới, tất cả các nước có tàu sân bay bình thường đều bắt đầu từ việc đóng những con tàu này với thiết bị động lực thông thường, và sau đó mới đóng các tàu chạy bằng năng lượng nguyên tử. Xin nói thêm, kinh nghiệm này cực kỳ ít ỏi, bởi vì trong nửa cuối thế kỷ XX, các tàu sân bay nhỏ với những máy bay hạ-cất cánh thẳng đứng Harrier đã trở nên phổ biến thay vì các máy bay thông thường. Những con tàu như thế đã được chế tạo tại Anh (một chiếc trong số chúng sau đó được bán cho Ấn Độ), Italia và Tây Ban Nha (dành riêng cho không quân nước này và không quân Thái Lan). Trung Quốc không cần những tàu sân bay kiểu như vậy là điều hết sức hiến nhiên, hơn nữa nước này không có các máy bay hạ-cất cánh thẳng đứng.
Nên lấy ai làm mẫu
Dĩ nhiên, mô hình trong việc đóng tàu sân bay bình thường đối với Trung Quốc là Mỹ- quốc gia trong những năm sau chiến tranh đã đóng 10 tàu sân bay lớn (2 chiếc kiểu Midway, 4 chiếc kiểu Forrestal và 4 chiếc kiểu Kitty Hawk) với thiết bị động lực thông thường, và sau đó là 11 tàu sân bay chạy bằng năng lượng nguyên tử lớp đó (Enterprise và 10 chiếc kiểu Nimitz). Tại Pháp tàu sân bay chạy bằng năng lượng nguyên tử Charles de Gaulle đã ra đời, sau 2 tàu sân bay thông thường lớn (Clemenceau" và "Foch", mà hiện nay đã trở thành Sao Paulo của Brazil). Liên Xô đã thực hiện một cách nhất quán những quan điểm quan điểm chỉ đạo. Trước tiên đóng 4 tuần dương hạm kiểu Kiev (mẫu thiết kế 1143) mang máy bay hạ-cất cánh thẳng đứng Iak-38. Hiện nay duy nhất một chiến hạm kiểu này còn nguyên vẹn đang được hoán cải thành tàu sân bay cho Ấn Độ nhằm đảm bảo cho các máy bay tiêm kích Mig-29 có thể hạ-cất cánh bình thường. Sau đó bắt đầu đóng 2 tàu sân bay lớn thông thường (tuần dương hạm có máy bay) Đô đốc Kuznetsov (mẫu thiết kế 1143.5) và Variag (mẫu thiết kế 1143.6), tiếp theo khởi công đóng tàu sân bay chạy bằng năng lượng nguyên tử Ulianovsk (mẫu thiết kế 1143.7), có bệ phóng máy bay chứ không phải bàn nhún. Nhưng do Liên Xô tan rã, nước Nga chỉ được thừa kế Kuznesov. Variag và Ulianovsk (vào đầu năm 1992 mới chỉ hoàn thành 5% khối lượng công việc) nằm lại ở Ukraine. Một chiếc đã được hoán cải thành Liêu Ninh, chiếc kia bị cắt ra thành sắt vụn.
Việc coi những chiến hạm của Liên Xô là tuần dương hạm chở máy bay (chứ không phải tàu sân bay) có những lý do riêng của nó. Những con tàu này được đóng tại Liên Xô không phải để làm hạt nhân cho các cụm không quân xung kích nhằm tiến hành các chiến dịch viễn dương, mà là phòng không những khu vực triển khai các tàu ngầm trang bị tên lửa chiến lược ở khá gần bờ biển nước mình. Những tuần dương hạm chở máy bay không có các máy bay tiến công, vai trò của chúng được tên lửa đối hạm Bazalt hoặc Granit thực hiện. Nhờ có những tên lửa như thế (tương tự những tên lửa trang bị cho tuần dương hạm mang tên lửa chạy bằng năng lượng nguyên tử mẫu thiết kế 1144 và tàu ngầm nguyên tử đa nhiệm mẫu thiết kế 949) mà những con tàu mẫu thiết kế 1143 không thể được coi là tàu sân bay, bởi vì chúng không có vũ khí tiến công riêng, mà chỉ có các phương tiện phòng không để tự vệ. Hiển nhiên, vào thời điểm phóng tên lửa đối hạm, con tàu không thể tiếp nhận cũng như phóng máy bay, ngoài ra tất cả các máy bay lúc này phải ở trong khoang chứa dưới boong. Đặc điểm quan trọng nhất của mẫu thiết kế 1143.5 là có bàn nhún ở mũi tàu thay cho máy phóng. Đây là những chiếc tàu sân bay cá biệt trên thế giới sử dụng bàn nhún này phục vụ cho những máy bay cất-hạ cánh kiểu truyền thống xuất kích. Ở nước ngoài những bàn nhún kiểu này chỉ được sử dụng trên những con tàu sân bay hạng nhẹ được trang bị máy bay hạ-cất cánh thẳng đứng Harrier. Tương tự như vậy, mẫu thiết kế 1143.5 được thực hiện không có máy phóng, điều này hạn chế khả năng của con tàu về tần suất máy bay cất cánh và không cho phép chúng xuất kích khi máy bay khác hạ cánh cùng thời điểm (các tàu sân bay Mỹ có 2 máy phóng, có thể đồng thời đảm bảo cất và hạ cánh cho các máy bay). Chiến hạm Ulianosk chạy bằng năng lượng nguyên tử đã được xác định trở thành tàu sân bay đúng nghĩa.
Nếu Trung Quốc đi theo con đường mà Mỹ, Pháp và Liên Xô đã từng đi, thì khởi đầu nước này có thể đóng 2-3 tàu sân bay với thiết bị động lực thông thường, và sau đó 3-4 chiếc chạy bằng năng lương hạt nhân. Tuy nhiên, có thể phương án cuối cùng là: cả 6 tàu sân bay đều có thiết bị động lực thông thường (phương án tương đối rẻ và nhanh) hoặc tất cả đều chạy bằng năng lượng hạt nhân (phương án đắt tiền và có thời gian thực hiện kéo dài, lại chưa có tiền lệ trên thế giới). Việc lựa chọn phụ thuộc, vấn đề thiết bị động lực (thông thường cũng như hạt nhân) được giải quyết bằng cách nào và bộ chỉ huy Trung Quốc muốn có được các tàu sân bay sau thời gian bao lâu. Tất nhiên là còn có vấn đề máy bay trên boong, nhưng Trung Quốc đủ sức giải quyết việc này nhanh hơn đóng con tàu đầu tiên thuộc lớp này đúng nghĩa.
Nếu nói tới kinh nghiệm đóng tàu sân bay chạy bằng năng lượng nguyên tử đúng nghĩa của nước ngoài, thì chỉ Pháp và Mỹ tích lũy được. Bên cạnh đó, khó có thể coi kinh nghiệm của Pháp là thành công: tàu sân bay Charles de Gaulle trong suốt 12 năm được sử dụng của mình đã vấp phải những vấn đề kỹ thuật nghiêm trọng, kể cả với lò phản ứng hạt nhân. Điều này bất thường tới mức, ở Pháp phương án đóng tàu sân bay với thiết bị động lực thông thường để thay thế Charles de Gaulle đang được nghiên cứu. Hơn nữa, việc chỉ có 1 tàu sân bay trong lực lượng hải quân là điều không hợp lý, bởi vì phần lớn thời gian nó sử dụng vào việc sửa chữa, và khi đó hải quân hoàn toàn không có tàu sân bay (kinh nghiệm của Nga hiện tại cũng chứng minh điều này). Do vậy, chỉ có Mỹ là mô hình thành công duy nhất trong lĩnh vực này.
Nói về những hạm nổi không chở máy bay chạy bằng năng lượng hạt nhân, thì có các tuần dương hạm mang tên lửa chạy bằng năng lượng nguyên tử do Mỹ (9 chiếc) và Liên Xô/Nga đóng (4 chiếc). Nhưng kinh nghiệm này không thể coi là thành công. Tất cả các tuần dương hạm chạy bằng năng lượng nguyên tử của Mỹ đến nay đã bị thải loại và tháo dỡ. Trong số các tuần dương hạm chạy bằng năng lượng nguyên tử của Nga chỉ còn 1 chiếc đang phục vụ (Peter đại đế), 3 chiếc kia đang được niêm cất, khả năng đưa vào tái sử dụng của chúng rất thấp, mặc dù đôi khi những kế hoạch như thế cũng có được bàn thảo.
Như vậy. Trung Quốc có thể sao chép các lò phản ứng của Mỹ, mặc dù không loại trừ phương án của Nga (cho những tuần dương hạm theo mẫu thiết kế 1144 đã nhắc tới ở trên). Lẽ dĩ nhiên, cả Mỹ và Nga không chuyển giao cho Trung Quốc các công nghệ như thế một cách chính thức, nhưng không thể loại trừ phương án nước này có được chúng bằng con đường bất hợp pháp. Nếu không làm được điều này, Bắc Kinh có thể lựa chọn phương án đóng các tàu sân bay với thiết bị động lực thông thường, hơn nữa phương án mua hợp pháp ở đây là hoàn toàn khả thi (có lẽ tại Ukraine). Hoặc đơn giản là lắp đặt lên tàu sân bay những lò phản ứng của tàu ngầm.
Tăng cường thế mạnh
Trong thành phần biên chế của hải quân PLA các tàu sân bay có thể giải quyết những nhiệm vụ chủ yếu liên quan chặt chẽ với nhau như:
- Không để cho lực lượng không quân và hải quân Mỹ tiến công lãnh thổ CHND Trung Hoa và chọc thủng phòng tuyến gần và phòng tuyến xa trên biển dự kiến của Trung Quốc;
- Đảm bảo an ninh cho các tuyến đường hàng hải từ những quốc gia cung cấp nguyên liệu cho Trung Quốc trên suốt chiều dài của chúng;
- Tác động vũ lực và tâm lý vào các nước cung cấp nguyên liệu cho Trung Quốc trong trường hợp xảy ra các biến cố chính trị không mong muốn đối với Bắc Kinh ở những nước này, và có thể tranh thủ những nguồn nguyên liệu mới.
CHND Trung Hoa có khả năng trong thời hạn tương đối ngắn xây dựng lực lượng hải quân tương đương với hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ, và có khả năng tiến công ngang với hạm đội này. Hiện nay người Trung Hoa tụt hậu đáng kể so với người Mỹ trong lĩnh vực phòng thủ chống ngầm, nhưng về phòng không mới gần đây họ cũng còn lạc hậu hơn, nhưng đang nhanh chóng rút ngắn khoảng cách. Tất nhiên hoàn toàn không thể so sánh kinh nghiệm chiến đấu của hải quân Mỹ và Trung Quốc, nhưng các lính thủy Mỹ rút cục cũng giống như những đồng nghiệp Trung Quốc của mình, chưa chiến đấu với ai trên biển. Chỉ 10 năm trước đây, hải quân Mỹ có thể đánh tan hải quân Trung Quốc mà không bị trừng phạt gần bờ biển nước này. Hiện nay Mỹ đủ sức thắng Trung Quốc ngoài đại dương, còn ở ven biển CHND Trung Hoa mọi sự đã không còn như thế. Sau khi các tàu sân bay bình thường được đưa vào thành phần biên chế của hải quân Trung Quốc, rất ít khả năng người Mỹ dám chiến đấu chống lại hải quân nước này ở cấp độ cao, trừ phi Trung Quốc trực tiếp xâm lược chống lại họ.
Việc có các tàu sân bay sẽ tăng cường một cách đáng kể vị thế của Trung Quốc trong trường hợp nổ ra xung đột với Nhật Bản, bởi vì sẽ xuất hiện khả năng thực hiện những đòn tiến công vào nước này không chỉ từ phía Tây, mà cả từ phía Đông, đồng thời các đòn tiến công có thể được thực hiện trên toàn bộ lãnh thổ Nhật Bản, tới tận Hokkaido. Trong trường hợp chiến tranh với nước Nga, hải quân PLA, khi đã có các tàu sân bay sẽ có khả năng tiến công vào Sakhalin, quần đảo Kuril và Kamchatka, và thậm chí đổ bộ lên đó. Có tàu sân bay sẽ tăng cường hơn nữa vị thế của Trung Quốc trong cuộc tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông với các quốc gia ASEAN. Trong tương lai khả năng sử dụng các tàu sân bay để gây sức ép với Ấn Độ rất lớn. New Dehli đang tích cực xây dựng hạm đội viễn dương, nhưng nếu so với Trung Quốc thì thật khó cho người Ấn, và chính xác hơn là không thực tế.
Quá mức phòng vệ
Về chiến dịch đánh chiếm Taiwan, cần phải nhận định rằng, do đảo này rất gần đại lục nên các tàu sân bay không nhất thiết phải tham gia. Trung Quốc hiện nay hoàn toàn có đủ lực lượng không quân đóng căn cứ ở bờ biển. Dầu sao việc có các tàu sân bay đối với Bắc Kinh cũng cải thiện được những điều kiện tiến hành một chiến dịch như vậy. Chúng sẽ được triển khai ở phía Đông Taiwan để thực hiện các đòn tiến công từ hướng này (điều này gây khó khăn cho hoạt động của hệ thống phòng không Taiwan vì không có khả năng đánh trả từ tất cả các phương vị), thực hiện phong tỏa đường biển từ xa đối với đảo này và bảo đảm ngăn ngừa sự can thiệp của Mỹ vào cuộc xung đột. Để giải quyết những nhiệm vụ này hải quân PLA chỉ cần 2-3 tàu sân bay là quá đủ, đồng thời 1 chiếc thậm chí có thể là Liêu Ninh.
Nhưng rất ít khả năng, hải quân Trung Quốc nhận được 1 con tàu sân bay đúng nghĩa trước năm 2020, và tất cả 6 chiếc trước giai đoạn 2030-2035. Bên cạnh đó Bắc Kinh đủ sức giải quyết vấn đề Taiwan trước các mốc thời gian đó. Vì vậy có thể khẳng định một cách chắc chắn: các tàu sân bay được đóng ở Trung Quốc không phải để đánh chiếm Taiwan, mà là để giải quyết những nhiệm vụ sẽ trở nên thiết yếu sau khi hòn đảo này sáp nhập vào thành phần CHND Trung Hoa. Hơn nữa việc đánh chiếm này bảo đảm cho Trung Quốc tự do triển khai hải quân trên đại dương xa xôi.
Đồng thời, trái ngược với nhận định của đa số các chuyên gia nghiên cứu phương Tây, hải quân đối với Trung Quốc không phải là ưu tiên đặc biệt. Đơn giản là, chính phương diện này trong việc xây dựng quân đội của Trung Quốc được phương Tây quan tâm nhất, bởi vì nếu đụng độ với PLA trên bộ, các lực lượng vũ trang NATO trên thực tế không có cơ hội. Ở nước Nga, nơi thường sao chép một cách đơn thuần những nguồn tin phương Tây về những gì liên quan tới sự phát triển của PLA, cần phải hiểu rằng, không quân và lục quân Trung Quốc đang được hoàn thiện với tốc độ nhanh chóng. Sức mạnh quân sự của Trung Quốc từ lâu đã quá thừa để phòng thủ.
Đỗ Ngọc Inh - Theo Military Industrial Courier, Nga
Comments[ 0 ]
Post a Comment