Một số vấn đề về đối tác, đối tượng trong tình hình mới theo quan điểm của Đảng ta
Thursday, February 13, 2014
Đối tác, đối tượng là vấn đề cơ bản, quan trọng trong chính sách, chiến lược và phức tạp, nhạy cảm trong quan hệ quốc tế của mọi quốc gia. Xây dựng quan hệ và xử lý mối quan hệ đối tác, đối tượng có tác động rất lớn đến sự ổn định, phát triển bền vững trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Ảnh minh họa.
Nhận thức về đối tác, đối tượng không bất biến. Khi thế giới tồn tại hai phe đối kháng, “chiến tranh lạnh”, quan hệ giữa các quốc gia được chia thành: Ta, bạn, thù. Cơ sở chủ yếu của sự phân chia đó là ý thức hệ, giai cấp. Có nước đưa ra “tiêu chí” phân loại quan hệ rất máy móc: Bạn của thù là thù, thù của thù là bạn! Không ít nước công khai xác định nước khác là kẻ thù cơ bản, lâu dài. Cùng với những biến động to lớn, bất ngờ của thế giới, quan hệ giữa các nước đan xen, chuyển hóa rất phức tạp. Xuất hiện những quan niệm dẫn đến sự thay đổi lớn trong quan hệ giữa các nước. Năm 1859, Henry Temple Palmerston, một chính khách Anh với hơn 10 năm làm Bộ trưởng Ngoại giao, 6 năm làm Thủ tướng, người bảo vệ thành công lợi ích quốc gia trong các cuộc xung đột kéo dài giữa Anh với Pháp và nước Nga Sa Hoàng, đã rút ra kết luận rất quan trọng: Giữa các nước không có đồng minh vĩnh viễn và không có kẻ thù truyền kiếp, chỉ có quyền lợi dân tộc là lâu dài mà thôi. Trong xu thế toàn cầu hóa, sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng tăng, sự bền vững của quốc gia, sự tồn tại của thể chế chính trị bị tác động ngày càng nhiều bởi yếu tố bên trong, thì việc bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc càng được đề cao, được xem là mục tiêu cơ bản, lâu dài. Lãnh đạo quốc gia không còn tự bó hẹp quan hệ chỉ với đồng minh mà mở rộng quan hệ với các nước khác theo lợi ích của chính mình. Nếu xảy ra tranh chấp giữa đồng minh với một nước khác, thái độ của nước lớn trước hết là xuất phát từ chính lợi ích của mình. Hành động của Mỹ trong vụ tranh chấp chủ quyền đảo Scarbrough (Hoàng Nham) giữa Trung Quốc và Phi-lip-pin; của Nga, Trung Quốc trong xung đột ở Xy-ri... là những minh chứng cho điều đó. Khi thể chế chính trị, chính quyền thay đổi thì quan hệ đồng minh cũng dễ thay đổi theo... Cùng với việc đề cao lợi ích quốc gia, tính thực dụng trong quan hệ giữa các nước cũng gia tăng, kiểu như "mèo trắng, mèo đen đều tốt, miễn là bắt được chuột"! Thực tiễn ấy đã thuyết phục nhiều quốc gia. Họ xử lý vấn đề đối tác, đối tượng linh hoạt, nhằm tạo môi trường thuận lợi để phát triển, bảo vệ đất nước, bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc. Các nước ưu tiên lựa chọn những cường quốc cùng chung lợi ích chiến lược để xây dựng quan hệ đối tác chiến lược nhằm tìm kiếm sự ủng hộ, chỗ dựa cho xây dựng và bảo vệ đất nước. Quan hệ đối tác có cấp độ khác nhau, tùy theo lợi ích quốc gia, dân tộc, mục tiêu bảo vệ đất nước và chiến lược, sách lược trong từng giai đoạn. Có không ít quan hệ đối tác, thậm chí là đối tác chiến lược giữa những nước có thể chế chính trị khác nhau; hoặc giữa những nước đang có tranh chấp chủ quyền với nhau. Xu hướng chung trên thế giới là không công khai chỉ rõ ai là đối tượng. Tuy nhiên, khi có mối đe dọa trực tiếp, các nước cũng xác định đối tượng đấu tranh cụ thể.
Vị trí địa - chiến lược và những lý do khác làm cho Việt Nam không ít lần phải xử lý quan hệ đối tác, đối tượng trong những hoàn cảnh không dễ dàng. Chúng ta cũng từng bị ảnh hưởng, quan niệm cứng nhắc về đối tác, đối tượng. Từ truyền thống dân tộc, kinh nghiệm của thế giới và qua trải nghiệm của chính mình, nhận thức của Đảng ta về đối tác, đối tượng có sự phát triển, để từ đó đưa ra những chủ trương sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, xu thế của thế giới. Cương lĩnh năm 1991 đã xác định những vấn đề rất cơ bản, có tính định hướng về đối tác, đối tượng. Theo Cương lĩnh, những lực lượng xâm phạm độc lập dân tộc, cản trở việc thực hiện 6 mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội là đối tượng đấu tranh của nhân dân ta; đối tượng trực tiếp, trước mắt là "chủ nghĩa thực dân mới và các thế lực thù địch chống độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội"; đối tượng tác chiến và đấu tranh của quân và dân ta là: "chống lại sự can thiệp và xâm lược của chủ nghĩa đế quốc nhằm bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc"(1). Nghị quyết Đại hội Đảng VII, VIII tiếp tục cụ thể hóa, bổ sung, phát triển quan điểm về đối tác, đối tượng. Định hướng như vậy là đúng đắn nhưng chưa thật bao quát được sự phức tạp trong quan hệ quốc tế trong xu thế hội nhập, toàn cầu hóa. Với tư duy mới, Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc đã khái quát thành nguyên tắc, thể hiện cách nhìn nhận mới và thống nhất về đối tác, đối tượng. Sau khi Nghị quyết ra đời, nguyên tắc xác định và xử lý quan hệ đối tác, đối tượng được kiểm nghiệm qua thực tiễn và khẳng định tính đúng đắn. Do đó, Nghị quyết số 28-NQ/TW của BCH Trung ương khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đã đưa nguyên tắc trên thành quan điểm: Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng. Mặt khác, trong tình hình diễn biến nhanh chóng và phức tạp hiện nay, cần có cách nhìn biện chứng: Trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải đấu tranh"(2).
Quan điểm của Đảng vừa có tính khái quát cao, vừa đầy đủ, làm cơ sở để nhận thức và xử lý quan hệ đối tác, đối tượng một cách bình tĩnh, sáng suốt. Trong đó, căn cứ xác định đối tác được đặt lên trước là phù hợp với quan điểm của Đảng lấy đối tác làm cơ sở để thiết lập quan hệ quốc tế: "Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế"(3). Đối tượng không chỉ là thế lực có âm mưu, hành động gây chiến tranh, bạo loạn lật đổ chế độ, mà còn là những kẻ xâm phạm độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia, dân tộc, bằng phương thức vũ trang và phi vũ trang, cả từ bên ngoài và bên trong. Ai là đối tượng không phải tự chúng ta áp đặt mà do chính âm mưu và hành động của họ. Quan điểm chỉ rõ sự đan xen, chuyển hóa phức tạp giữa đối tác và đối tượng, ngay trong từng đối tượng vẫn có mặt đối tác, cần tranh thủ, hợp tác; sự chuyển hóa giữa đối tượng, đối tác phụ thuộc rất lớn vào phương thức ứng xử của chúng ta. Quan điểm chỉ đạo phải triệt để phân hóa, cô lập cao độ với từng bộ phận của đối tượng. Nghị quyết nhấn mạnh, trong khi tăng cường quan hệ đối tác, vẫn phải chú ý mặt đối tượng và phải đấu tranh với nó. Quan điểm của Đảng đã quán triệt tư tưởng đặt lên hàng đầu lợi ích quốc gia, dân tộc với mục tiêu xuyên suốt là giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững chế độ chính trị XHCN, kết hợp chặt chẽ với tạo dựng môi trường thuận lợi nhất cho xây dựng đất nước. Nhận thức và xử lý quan hệ đối tác, đối tượng theo quan điểm của Đảng không phải là sách lược nhất thời mà là chủ trương cơ bản, nhất quán, lâu dài. Lịch sử dân tộc cũng như thực tiễn hoạt động của Đảng đã chứng tỏ điều đó và được thế giới thừa nhận.
Quan điểm về đối tác, đối tượng là một trong những điểm nổi bật, có sự đột phá trong tư duy mới của Đảng về bảo vệ Tổ quốc; khắc phục được hạn chế của tư duy cũ, không cứng nhắc, làm cản trở hội nhập, hợp tác, không mơ hồ, mất cảnh giác; vừa giữ nguyên tắc, vừa đủ linh hoạt, được xem như cẩm nang “dĩ bất biến” để ứng với “vạn biến” trong quan hệ, xử lý các tình huống chiến lược. Quan điểm của Đảng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là cơ sở chính trị trực tiếp cho đường lối, chính sách đối nội, đối ngoại. Thành công trong phát triển quan hệ đối ngoại, không để xảy ra xung đột, đối đầu trong những năm qua có sự góp phần đáng kể của quan điểm nêu trên. Chưa bao giờ chúng ta có được nhiều bạn bè, đối tác như ngày nay. Việt Nam đã có quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với hơn 20 nước, trong đó có tất cả các nước lớn, các nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, các nước láng giềng, bạn bè truyền thống. Trong khi tăng cường quan hệ đối tác, chúng ta vẫn kiên trì đấu tranh, giải quyết thỏa đáng các vấn đề nảy sinh, thu hẹp những khác biệt trong tranh chấp chủ quyền Biển Đông, không để mâu thuẫn, tranh chấp cản trở các quan hệ khác. Chúng ta đã tạo được sự đan xen lợi ích chiến lược, giữ vững và củng cố môi trường hòa bình, ổn định, tạo thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Quan điểm của Đảng về đối tác, đối tượng có giá trị to lớn về lý luận và thực tiễn. Nhưng cũng có ý kiến cần định hướng cụ thể hơn về đối tác, đối tượng để tránh bất cập, lúng túng, hoặc lẫn lộn giữa chiến lược và sách lược trong xử lý các trường hợp cụ thể. Để giải quyết điều đó, quan trọng nhất là phải quán triệt sâu sắc và vận dụng linh hoạt, sáng tạo quan điểm của Đảng. Xử lý mối quan hệ đối tác, đối tượng phải xem xét trên quan điểm tổng thể, lấy lợi ích cơ bản và lâu dài của quốc gia, dân tộc làm nền tảng; không vì lợi ích cục bộ, trước mắt mà làm tổn hại đến lợi ích chung. Cần tính đến sự tác động qua lại lẫn nhau giữa chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh và đối ngoại; giữa lợi ích quốc gia và đoàn kết quốc tế. Đặc biệt coi trọng công tác nghiên cứu dự báo chiến lược, kịp thời phát hiện cơ hội để khai thác, nhận rõ thách thức để hóa giải, không để rơi vào tình thế bị động, bất ngờ...
Đại tá TS VŨ ĐĂNG MINH
(1). Đảng ủy Quân sự Trung ương, Tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991 của Bộ Quốc phòng (1991-2011), t.68,69.
(2). Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết số 28-NQ/TW về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
(3). Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, HN.
Báo QĐND
Tags:
Chính Trị Quốc Phòng
Comments[ 0 ]
Post a Comment